Vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa
trên nhân loại --- Suy niệm
của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Lễ Chúa Hiển Linh là cao điểm
của mùa Giáng Sinh. Ta đã có dịp suy niệm Lời Chúa
về ý nghĩa của biến cố Ngôi Hai làm
người sinh xuống và ở giữa nhân loại.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế giới
luôn luôn là một dấu chỉ, một ngôn ngữ
để Thiên Chúa nói với loài người. Vậy qua
biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa muốn tỏ mình ra,
muốn “lộ diện” với nhân loại, để nhân loại
thấy được Thiên Chúa vô hình và kế hoạch ân
sủng của Người (xem Ga 1,18).
1. Vinh
quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên nhân loại (bài đọc Cựu Ước – Is
60,1-6)
Qua cái nhìn của ngôn sứ I-sai-a,
Giêrusalem không còn là thủ đô của dân tộc nhỏ bé
Ít-ra-en nữa, nhưng nó đã trở nên “đô thành
của Thiên Chúa” và trung tâm cứu độ của toàn
thể thế giới rồi. Từ bao lâu nay, thế
giới nằm dưới ách thống trị của bóng
tối và mây mù tội lỗi. Tình trạng của Giêrusalem
cũng không hơn gì thế giới, vì cũng ở trong
tối tăm và chẳng dân tộc nào nhận ra nó.
Nhưng khi Giêrusalem được mặt trời công chính
ngự đến thì chỗ đứng của nó hoàn toàn
thay đổi. Giêrusalem đã được chọn làm
nơi “vinh quang của Đức Chúa như bình minh
chiếu tỏa”. Vì thế ngôn sứ kêu gọi Giêrusalem hãy
đứng cao lên để toàn thế giới nhận
được ánh bình minh của Đức Chúa. Giêrusalem
sẽ chứng kiến tầm quan trọng của nó vì nó
trở nên nguồn sáng lôi cuốn và hướng dẫn
toàn nhân loại đến một vương quốc
mới.
Ngôn sứ I-sai-a sử dụng hình
ảnh giàu có phong phú của một quốc gia trần
thế để diễn tả một thực tại
thiêng liêng là vương quốc ân sủng của Thiên Chúa.
Theo quan niệm Do-thái, một quốc gia hùng mạnh là
quốc gia đông dân cư và giàu sang, với của
cải vàng bạc từ các nước thiên hạ
đổ về qua đường biển, hoặc qua
đường bộ và chở đầy trên lưng
đàn lạc đà không sao đếm xuể. Hình ảnh
ấy tượng trưng cho sự sung mãn ân sủng Thiên
Chúa ban cho nhân loại khi Con Một xuống thế làm
người tại Giêrusalem mới. Muôn dân nước
“đều tập hợp, kéo đến” để nhìn
nhận “vinh quang của Thiên Chúa”.
Nhưng vinh quang của Thiên Chúa phải
chăng là quyền năng cao cả của Người?
Đúng vậy. Tuy nhiên hơn thế nữa, quyền
năng cao cả ấy được biểu hiện qua
việc làm yêu thương của Thiên Chúa khi Người
ban cho ta Con Một. “Tình yêu của Thiên Chúa đối
với chúng ta được biểu lộ như thế
này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian
để nhờ Con Một của Người mà chúng ta
được sống” (l Ga 4,9). Thiên Chúa có cả một
kế hoạch để chiếu tỏa vinh quang của
Người trên Giêrusalem mới, tức là kế hoạch
ân sủng được thực hiện một cách
lạ lùng qua Đức Giêsu Kitô và thánh Phaolô Tông đồ
gọi đó là Mầu nhiệm Đức Kitô.
2.
Mầu nhiệm Đức Kitô được mặc
khải cho cả Ít-ra-en lẫn dân ngoại (bài đọc Tân
Ước – Ep 3,2-3a.5-6)
Thần học gia Phaolô cho ta một cái
nhìn thật rõ ràng về kế hoạch cứu độ
của Thiên Chúa. Kế hoạch cứu độ, những
từ này nói lên công việc Thiên Chúa làm và sự rỗi
của ta là đối tượng của công việc
ấy. Những từ này nhấn mạnh về phía Thiên
Chúa chủ động. Nhưng đối với thánh
Phaolô, việc cứu rỗi không phải là việc làm của
mình Thiên Chúa, mà còn phải có sự đáp trả của ta.
Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ, nhưng ta là kẻ
được lãnh nhận cần phải cộng tác tích
cực, sử dụng ân sủng đó để sống
như con cái Thiên Chúa hầu đạt tới mức sung
mãn trong Đức Kitô. Do đó, thánh Phaolô gọi kế
hoạch đó là “kế hoạch ân sủng”, vì Đấng
ban ân sủng cũng như những kẻ lãnh nhận ân
sủng sẽ cùng cộng tác với nhau mà đến
với nhau và làm cho quan hệ đôi bên được
vững bền muôn đời. Ta không thể tưởng
tượng nổi tại sao Thiên Chúa lại chọn cách
thế như vậy để đến với nhân
loại và cứu độ con người. Quả
thực là một mầu nhiệm! Trong tiếng La-tinh,
mầu nhiệm cứu độ thường được
gọi là “kế hoạch cứu độ” (economia salutis).
Mầu nhiệm này được Thiên Chúa tỏ ra và
thực hiện qua Đức Kitô nên thánh Phaolô gọi là
“Mầu nhiệm Đức Kitô”.
Thánh Phaolô cho ta một định
nghĩa đầy đủ về mầu nhiệm này.
“Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ
Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa
kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành
một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa
hứa” (Ep 3,6).
Vậy Thiên Chúa muốn tỏ cho ta
biết những gì qua “Mầu nhiệm Đức Kitô”? Có
ba điểm cốt yếu trong chân lý mầu nhiệm này.
Trước
hết Thiên Chúa muốn mọi người không trừ ai,
Do-thái cũng như dân ngoại, đều được
cùng hưởng phần phúc gia nghiệp của Người,
tức là lời hứa được cứu độ.
Mầu nhiệm Đức Kitô khẳng định tính cách
phổ cập của ơn cứu độ. Dù thuộc
bất cứ dân tộc nào, nền văn hóa nào, hoặc
giai cấp nào trong xã hội mọi người đều
được mời gọi đón nhận ơn cứu
độ của Thiên Chúa, vì đây là kế hoạch ân
sủng dành cho tất cả nhân loại. Nhờ chia sẻ
cùng một bản thể nhân loại với Đức
Kitô nên ta được mời gọi lãnh ân sủng Thiên
Chúa ban cho ta trong Đức Kitô.
Điểm thứ hai mầu nhiệm
Đức Kitô cho ta thấy vai trò quan trọng của
Đấng thực hiện kế hoạch ân sủng là
Đức Kitô Giêsu. Thiên Chúa không đặt kho tàng ân
sủng cứu độ ấy ở trên trời hay
một địa điểm đặc biệt nào đó
dưới thế gian, vì như thế làm sao con
người có thể tìm kiếm được. Nhưng
Người đặt nguồn ơn cứu độ
ấy “trong Đức Kitô Giêsu”, Đấng
được Chúa Cha sai đến “làm người
để chuộc tội cho thiên hạ” (Rm 8,3).
Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm,
cho nên khi Đức Kitô thực hiện kế hoạch ân
sủng cứu độ qua bản thể nhân loại và
bản thể Thiên Chúa của Người, thì tất
cả những lời giảng, việc làm, cái chết và
sự phục sinh của Người đều có giá
trị của Thiên Chúa và có khả năng cứu
độ mọi người. Người chịu
cuộc Thương Khó, chết và sống lại,
để được Thiên Chúa tôn vinh và đặt làm
anh cả của một đoàn em đông đúc, tức là
nhân loại mới (Rm 8,29).
Điểm thứ ba nói lên phương
thức giúp mọi người nhận biết và tin vào
Đấng Cứu Độ. Đó là “nhờ Tin
Mừng”. Tin Mừng cứu độ này “những
người thuộc các thế hệ trước”,
tức là các vị ngôn sứ thời Cựu Ước,
không có diễm phúc biết tới. Chỉ có các thánh Tông
đồ mới là những người được
biết và được Thiên Chúa trao phó cho nhiệm vụ
rao giảng Tin Mừng ấy. Trong thư gửi tín hữu
Rô-ma, thánh Phaolô nói về sứ vụ rao giảng Tin
Mừng như sau: “Thế nhưng làm sao người ta kêu
cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin
Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe
nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu
không được sai đi?... Nhưng không phải
mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng;
chính ngôn sứ I-sai-a đã nói: Lạy Đức Chúa, ai
đã tin khi nghe chúng con giảng? Ấy vậy, có
đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe
công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,14-17).
3.
“Từ phương Đông chúng tôi đến bái lạy
Người” (bài Tin
Mừng – Mt 2,1-12)
“Nhưng không phải mọi
người đều đã vâng theo Tin Mừng”, thánh Phaolô
đã phải cay đắng nói lên sự thật phũ
phàng ấy. Thánh Gio-an Tông đồ cũng đồng quan
điểm khi ngài khẳng định ngay trong lời
tựa sách Tin Mừng: “Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga
1,11). Câu truyện các nhà chiêm tinh phương Đông
đến bái lạy Hài Nhi Giêsu trong khi vua Hê-rô-đê
bối rối và dân thành Giêrusalem xôn xao đã chứng
thực điều các thánh Tông đồ khẳng
định là một sự thật. Chúa Giêsu Kitô
được sai đến để cứu độ
mọi người và mọi người được
mời gọi đón nhận Người, đó là một
tin mừng. Nhưng người ta từ chối không tin
nhận Người là Đấng Cứu Độ.
Như thế Tin Mừng đã trở thành tin buồn
đối với họ rồi.
Rõ ràng có hai lớp người khác nhau
theo câu truyện trong bài Tin Mừng. Các nhà chiêm tinh
đại diện cho những người tin vào
Đức Kitô, còn vua Hê-rô-đê và dân Giêrusalem thay mặt cho
những kẻ chối bỏ Đức Kitô. Gặp
được Đức Kitô, các nhà chiêm tinh đã thay
đổi cuộc đời mình. Hình ảnh các ông “đi
lối khác mà về xứ mình” thật có ý nghĩa.
“Lối khác” đây chính là con đường Đức
Kitô dạy trong Tin Mừng của Người. Còn “xứ
mình” không phải là phương Đông nữa, mà là quê
hương đích thực của họ, tức nhà Cha trên
trời.
Bài Tin Mừng là một kết luận
của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đặt ta trong
tư thế phải trả lời dứt khoát: tin
Đức Kitô và đón nhận ân sủng cứu
độ, hay là chối bỏ Người và hư mất
đời đời.
4.
Sống Lời Chúa
Thiên Chúa yêu thương ta và muốn
tỏ cho ta biết Người yêu thương ta
đến ngần nào. Qua biến cố Giáng Sinh của
Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho ta biết Người là ai và muốn
làm gì để ta được làm con cái Người và
được cứu độ. Điều đáng
mừng nhất, đó là ơn cứu độ đã
được ban cho mọi người không trừ ai.
Dĩ nhiên ta không phải là người Do-thái, nhưng
cũng không bị loại bỏ, trái lại
được quyền đến chia sẻ cùng một
gia nghiệp của Thiên Chúa. Nhưng điều quan
trọng là ta có thực lòng và hăng hái đón nhận
Đức Kitô như các nhà chiêm tinh phương Đông hay
không.
Suy nghĩ: Các nhà chiêm tinh “đã đi lối khác mà về xứ
mình”. Các vị ấy đã từ bỏ lối sống
cũ để đi theo lối sống của
Đức Kitô. Vậy lối sống cũ của tôi là
lối sống nào? Ngôi sao tức là Ánh Sáng Tin Mừng đã
soi lối cho tôi bước đi. Vậy tôi có đi theo
Ánh sao ấy không hay vẫn “đường xưa lối
cũ” từ bao năm nay?
Cầu nguyện: Lạy
Chúa, hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường
mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa.
Phần chúng con đã nhận biết Chúa nhờ
đức tin dẫn lối đưa đường, xin
dủ lòng thương đưa chúng con về chiêm
ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin nhờ
Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời Nguyện
Nhập Lễ, Lễ Chúa Hiển Linh).
|