Lễ Giáng Sinh của
muôn dân
Henry van
Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề: “Còn
một nhà đạo sĩ khác nữa” (The Other Wise Man),
kể về một nhà đạo sĩ thứ tư là
người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị Vua vừa sinh ra ở
Bêlem. Nhà đạo sĩ này tên là Artaban.
Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban đã
chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông
để dâng tặng Hài Nhi Giêsu. Thế
nhưng trên đường đến gặp ba nhà
đạo sĩ kia để cùng đi,
gặp bất cứ ai xin, ông cũng đem ra tặng
hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp được
là một bà cụ già rét run vì lạnh. Động lòng
trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ già viên ngọc
thứ nhất. Đi thêm một đoạn
đường nữa, ông gặp một toán lính toan làm
nhục cô gái. Ông đành đem viên
ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng
để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi
tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một
người lình do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các
hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Ông đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng
để tặng cho người lính và thuyết phục
anh từ bỏ ý định gian ác.
Tìm
được Hài Nhi Giêsu, nhà đạo
sĩ thứ tư này chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Ông bối rối và kể lại cuộc hành trình
của mình. Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi
Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra
nhận quà của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu,
nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng
những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất
là những người túng thiếu, đói khổ,
những người cần giúp đỡ. Chính
nhờ những nghĩa cử này mà Thiên Chúa mới
được tỏ mình ra cho mọi người.
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa
tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ
tỏ mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân.
Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải
cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh
sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho
mọi người đến với Chúa. Tiên tri Isaia
trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra
cả một viễn tuợng lớn lao:
đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên
Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương
hướng sẽ cùng quy về một mối trong
tiếng ngợi ca Thiên Chúa.
Nội dung của lòng tin tưởng
này đã được Thánh Matthêu diễn tả một
cách sống động qua câu chuyện về Ba Vua, đúng
hơn là ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp Chúa Giêsu
mới sinh tại Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là Ba
Vua, do đó Lễ Hiển Linh này cũng gọi là lễ Ba
Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở
đây muốn nhấn mạnh đến là: các đạo
sĩ, có thể là các nhà bác học hay thiên văn học,
đã từ Phương Đông mà tới (Phương
Đông vẫn thường được coi là
phương trời của những dân ngoại), họ là
những người ở ngoài Dân riêng của Chúa, không
thuộc dân Do Thái nhưng họ đã tìm đến và
được lãnh nhận ơn cứu độ. Có
thể nói, đoạn Tin Mừng này đã diễn tả tất
cả tấn bi kịch của công cuộc cứu
chuộc đối với Dân riêng của Chúa và
đồng thời cũng nói lên tấm lòng đại
độ của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng trưng cho
quyền lực, một thứ quyền lực xảo
quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai
vàng của mình như một lẽ sống. Còn dân thành
Giêrusalem đáng lý ra phải vui mừng khi hay tin “Vua
người Do Thái mới sinh”, Đấng họ trông
chờ như Vị Cứu Tinh, thì trái lại, họ
đã hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai
trị trên họ. Dường như họ ngại
phải dấn mình vào một sự đổi thay, dù
họ tin rằng sự đổi thay đó đem lại
sự giải thoát cho họ. Còn những
Tư Tế và những nhà thông luật, biết rõ nơi
Vị Cứu Tinh ra đời, nhưng chẳng ai màng
đến với Ngài. Để rồi cuối cùng,
chỉ có những người bị liệt vào hàng “dân
ngoại” lại hăm hở đến với “Vua
người Do Thái”, cũng là Vị Cứu Tinh của nhân
loại.
Thưa anh chị em,
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa
tỏ mình ra. Chúng ta
biết được qua bài Tin Mừng, Thiên Chúa đã
tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa nào có ai
thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được?
Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm
người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang
bản tính con người, làm người như chúng ta và
ở giữa chúng ta”. Từ khi Ngôi Lời
nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận
Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ
khước Thiên Chúa.
Vấn đề được nêu lên
hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức Kitô,
nếu không phải là mỗi người chúng ta? Tuy nhiên, hãy tự vấn
rằng bản thân chúng ta đã biết Đức Kitô
đến mức độ nào? Nhất
định chúng ta chỉ biết Ngài với một
mức độ thật giới hạn. Xét về
việc giảng giải bằng lời nói, chúng ta có
thể bập bẹ đưa ra một số chi tiết
về con người của Đức Kitô, về giáo
thuyết, về thân thế và sự nghiệp của
Đức Kitô; những điều mà người
thiện chí không thể không nhìn thấy. Còn nếu
chứng minh bằng chính đời sống, để nói
được với bất cứ ai, như Thánh Phaolô
đã nói: “Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi,
như tôi đã sống noi gương Đức Kitô”, thì
lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói.
Bởi vì cuộc sống hiện tại của họ,
mọi người đều biết nó như thế nào
rồi! Nói cách khác, bản thân tôi chưa gặp
được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên
Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên
Chúa ở trong mọi người. Nhưng thực sự,
tôi không thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những
cử chỉ tôi đối với những người chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy.
Và cũng thế, chưa ai thấy Thiên Chúa ở nơi tôi
cả vì chình cuộc sống của tôi đã nói lên rõ ràng
như vậy.
Thật vậy, còn có biết bao
người đang sống trong tăm tối thiêng liêng;
họ đang lầm lũi bước đi trong lầm
lạc; họ đang khao khát chân lý; họ không ngớt
đặt vấn nạn với chúng ta: “Đức Vua Dân
Do Thái sinh ra ở đâu?” hoặc: “Đức Giêsu là ai
vậy?. Vậy thì, hỡi các Kitô
hữu, hãy trả lời cho họ đi: “Đức Kitô
là ai?”. Nhưng xin
đừng mở cuốn Kinh Thánh ra nói như một nhà
thông thái. Chắc chắn họ không xin
chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở,
nhưng là một Đức Kitô sống động qua con
người của chúng ta. Không có con đường
nào khác đưa người ta trở về hoặc khám
phá ra Chúa Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã
vạch, đó là con đường yêu thương. Thật vậy, chính tình yêu là sức mạnh khiêm
tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất
để đưa con người đến với
nguồn chân lý.
Khi người Kitô hữu chỉ
đóng khung đời sống đạo của mình trong
nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra
những nhu cầu, những đòi hỏi của xã
hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá
bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo
của mình mà làm ngơ trước những đau khổ,
bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm
dập tắt những ánh sáng dẫn đường
tới Chúa Kitô.
May mắn là vào thời đại chúng
ta, có Mẹ Têrêsa Calcutta. Qua chính cuộc sống
đầy hy sinh vì mọi người, Mẹ Têrêsa đã
làm cho mọi người thấy Thiên Chúa. Thật
kỳ diệu: ngay Cuba rồi Liên Xô cũng mời Mẹ
Têrêsa đến thăm và cho phép lập Dòng các chị em
Thừa Sai Bác Ái với quyền thu nhận tập sinh,
đang khi các Dòng khác đã có mặt từ lâu, vẫn
chưa được phép này. Tại sao?
Cuộc đời hy sinh của Mẹ Têrêsa, từ khi là
nữ tu trẻ, từ năm 1918, đã dám mạo
hiểm, mạo hiểm trong khiêm tốn nhưng lòng
đầy tình yêu Thiên Chúa và con người. Sống
trong tập thể tu viện với đầy đủ
tiện nghi của một Dòng chuyên dạy con gái nhà giàu,
được bảo đảm hơn là cô đơn
giữa xóm ổ chuột. Thế mà, trong thời gian
dài, nữ tu Têrêsa là con người lang thang trên các nẻo
đường ở Calcutta, vì Têrêsa thấy rõ Chúa Giêsu
đang sống trong những người nghèo bên các vỉa
hè của những người dư giả, giả vờ
quên rằng có Lazarô đang nằm chết đói ngoài
cửa nhà mình, đang chờ một phần ăn rất
nhỏ, vất đi từ một bàn tiệc linh đình
sang trọng. Tình yêu, yêu Thiên Chúa, yêu Chúa trong mọi
người, đã biến đổi sự yếu hèn
của nữ tu Têrêsa nên sức mạnh vô địch. Không bao lâu, căn nhà nhỏ của Mẹ Têrêsa
phải nới rộng, nới rộng đến
nhiều quốc gia trên thế giới, cả đến
nước Liên Xô. Đoàn Thừa Sai Bác Ái chưa
đầy 40 năm đã chóng lớn như phép lạ, và
Mẹ Têrêsa được trao tặng cả vinh dự
lớn nhất của người đời: “giải
thưởng Nobel Hoà Bình”. Mẹ Têrêsa đã
làm cho mọi người thấy thế nào là Thiên Chúa.
Thiên Chúa của những năm cuối
thế kỷ 20 là như thế đó. Thiên Chúa trong viễn
tưởng năm 2000 phải như thế đó.
Thiên Chúa của những cá nhân ích kỷ, của những
tập thể ích kỷ, Thiên Chúa của người “tôi”
ích kỷ đã chết, và phải chết đi với cái
người “tôi” ích kỷ. Như thế sẽ chiếu
tỏ một Thiên Chúa, thực sự là Thiên Chúa tình
thương, hy sinh Con Một cho nhân loại phản
bội. Thiên Chúa là Đức Kitô dám chết
cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu.
May mắn là trong xã hội chúng ta, ngay
giữa chúng ta, trong những giờ này, có những mẫu
người hy sinh, quên mình, lo cho người đau
khổ, nghèo đói, bệnh tật, trong các bệnh viện,
đặc biệt ở những trại cùi. Những con
người Kitô hữu đó được công khai
bầu lên là người mẫu của tình yêu vị tha,
những nhân chứng đích thực của Chúa Kitô. Có
những người, giờ này, đang âm thầm vào các
bệnh viện, tìm thăm những bệnh nhân bại
liệt tại giường, không gia đình thăm
viếng, chăm sóc; anh chị em đó đã đến,
hỏi thăm sức khoẻ, chạy dùm một số
việc, giặt giũ, vệ sinh cá nhân… Xin Chúa ban cho có
nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa
với những việc làm cụ thể như thế
để tạo được sự Hiển Linh, làm cho
đồng bào được thấy Thiên Chúa, và
ước gì những chứng nhân ấy lại là chính
chúng ta. Ước gì được như vậy!
|