Dân ngoại
đứng trước Đức Vua của người Do thái
(Suy niệm của Lm. FX Vũ Phan Long)
Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận
ra có sự đối đầu của hai vương
quyền, vương quyền của Thiên Chúa và
vương quyền của loài người. Bản văn
cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của những
con người đói khát ơn cứu độ, đang
ra sức đi tìm; nỗi lo của con người sợ
cuộc sống mình bị đặt thành vấn
đề.
1.- Ngữ
cảnh
Chương 2 của Tin Mừng Mátthêu là
một bài tường thuật đầy đủ, hoàn
toàn dễ hiểu dù không có chương 1. Chính điểm
này cho thấy có nhiều tài liệu có trước Mt
được ráp nối với nhau. Đề tài “sự
hoàn tất các sấm ngôn” cũng được nhắc
tới đều đặn (x. 2,6.15.18.23). Có bốn
truyện kết cấu chặt chẽ với nhau tạo
nên diễn tiến của chương này, nhưng
dường như các biến cố ấy đã
được chọn cho phù hợp với các bản
văn ngôn sứ mà truyện được xây dựng xoay
quanh. Các sấm ngôn này đều có một đăc
điểm chung là nhấn mạnh trên một hoàn cảnh
địa dư. Trong chương này, chúng ta lại có
thể phân biệt ra hai khối, nhưng khối thứ
nhất được liên kết với khối thứ
hai bằng nhiều từ móc, và nếu không có khối
thứ nhất, thì không thể hiểu được
khối thứ hai:
- 2,1-12: Truyện kể nhiều chi tiết;
những nhân vật chính là các nhà chiêm tinh; ngôi sao là
phương tiện Thiên Chúa dùng để hướng
dẫn các vị này.
- 2,13-23: Ít chi tiết kể truyện, và
chỉ nhắm cho thấy các bản văn ngôn sứ
được hoàn tất; nhân vật chính là Giuse (không
hề được nhắc tới trong phân đoạn
trước); Giuse được thiên thần Chúa ban
lệnh trong mộng (y như trong 1,18-25).
Về phương diện truyện kể,
vua Hêrôđê là sợi dây liên kết hai phân đoạn.
Chương 2 đưa vào một đề
tài quan trọng của TM Mt: người Do Thái khước
từ ơn cứu độ Đức Kitô ban tặng,
còn Lương dân thì đón nhận. Vua Hêrôđê, hoàng
tử Áckhêlao và dân chúng Giêrusalem tượng trưng cho
người Do Thái; các nhà chiêm tinh tượng trưng cho
Dân ngoại. Dân ngoại sẽ chiếm chỗ mà
người Do Thái bỏ trống trong lòng dân Thiên Chúa, khi
họ không chịu tin. Dân ngoại sẽ là dân Israel
chân chính của thời đại cuối cùng,
được kêu gọi chia sẻ hạnh phúc của
cuộc sống tương lai. Hai chuyển động
tương phản này chạy xuyên suốt cả
chương 2 cũng như xuyên suốt cả Tin Mừng
cho đến cuộc Khổ nạn (x. 27,39-44.54). Nhìn
như thế, có thể nói truyện các nhà chiêm tinh tóm
tắt toàn thể Tin Mừng Matthêu.
Về việc các nhà chiêm tinh đến Bêlem,
chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi không
dễ trả lời: Các ngài từ đâu đến? Các
ngài đã thấy xuất hiện ngôi sao gì? Làm thế nào mà
các ngài nhận ra đó là ngôi sao của Đấng Mêsia?
Tại sao vua Hêrôđê không xử sự theo cách hợp lý
hơn?
Cũng như trong nhiều đoạn khác
của Tin Mừng, thay vì đặt ra những câu hỏi
về những chuyện không được nói tới,
chúng ta nên để ý đến những gì đã
được nói ra. Sau khi bảng gia phả đã cho
thấy Đức Giêsu cắm rễ trong lịch sử
dân Israel, và bản văn về nguồn gốc đích
thực của Người đã chỉ nói đến
những người có liên can trực tiếp, ở
đây tác giả giúp chúng ta nhìn xem cách tiếp đón
Đức Giêsu của những người mà vì họ
Đức Giêsu đã đến. Tác giả không nêu ra
một hành động nào của Hài Nhi, Đức Maria và
Giuse. Những nhân vật hành động là Thiên Chúa và
người ta, và đều nhắm tới Hài Nhi. Trong quan
hệ với Hài Nhi, ta phân biệt ra ba nhóm người: các
nhà chiêm tinh, các kinh sư và vua Hêrôđê. Hoạt động
công khai của Đức Giêsu và lời loan báo hậu
Phục Sinh về Đấng chịu đóng đinh và
phục sinh cũng được vây quanh bởi những
hạng người như thế. Nhận biết trong
niềm vui, lãnh đạm không quan tâm và bách hại liên
tục, ba yếu tố này đi theo mọi giai
đoạn của cuộc đời Đức Giêsu.
2.- Bố
cục
Bản văn này có thể được
chia ra làm hai phần, với một đoạn Mở:
1) Mở (cc. 1-2): Giới thiệu các nhân
vật và hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu
của các nhà chiêm tinh.
2) Phần 1 (cc. 3-9a): Gặp gỡ Hêrôđê,
vị vua “giả hiệu” của người Do Thái.
Cốt lõi là sấm ngôn về Đấng Mêsia.
3) Phần 2 (cc. 9b-12): Gặp gỡ Ấu
Vương “chân chính” tại Bêlem. Cốt lõi là hành vi tôn
thờ Đấng Mêsia.
3.- Vài
điểm chú giải
- Bêlem (Bêthlehem) miền
Giuđê (1): Bêlem (Bêthlehem) có nghĩa là “nhà bánh mì”, hoặc
cũng có thể là “nhà của thần Lah(a)mu” (thần
của dân Akkad). Thành này cách Giêrusalem 7 cây
số về phía nam, là quê hương của Bôát, của
Isai (Giêsê), và nhất là của vua Đavít (x.1 Sm 16; 20,6). Xem
Lc 2,4.11; Ga 7,42. Tác giả nói rằng Bêlem thuộc miền
Giuđê không chỉ là vì trong Cựu Ước, có một
Bêlem thuộc Dơvulun (x. Gs 19,15), nhưng là vì ngài còn
lặp lại (c. 5; x. c. 6) nhằm nêu bật chủ đề
của ngài: Đức Giêsu, vua người Do Thái, xuất
thân từ miền Giuđê, và cũng tại Giuđê mà
Người sẽ bị giết.
- Vua Hêrôđê (Cả): Vua này
cai trị miền Giuđê (năm 37-4 tCN). Bởi vì ông
xuất thân từ miền Iđumê, ở về phía nam
xứ Giuđê, và ủng hộ nền văn hóa Hy Lạp,
nên ông bị người Do Thái ghét bỏ, cho dù ông đã cho
sửa lại Đền Thờ thật huy hoàng.
Đến cuối đời, ông thường rơi vào
trạng thái kinh hoàng, nên chỉ một chút nghi ngờ, là có
thể hạ lệnh tàn sát, dù là tàn sát cả gia đình
ông. Khi ông qua đời, nhiều tai ương đổ
xuống trên xứ, đặc biệt là một cuộc
suy sụp về kinh tế. Do đó, đất
nước đầy những nhóm người bất mãn
và nổi loạn.
- Đức Giêsu ra đời:
Cộng đoàn tín hữu tiên khởi lúc đầu không có
thứ lịch như ngày nay đang được sử
dụng hầu như khắp nơi: chia thành hai phần
trước và sau cuộc chào đời của Đức
Giêsu. Thời ấy, người ta tính năm dựa theo
các Đại hội thế vận Hy Lạp (Đại
hội đầu tiên được tổ chức năm
776 tCN), hoặc dựa theo năm thành lập thành Rôma (ngày
21-4-753 tCN), hoặc dựa theo những hoàng đế cai
trị ở Rôma. Sau một thời gian, các Kitô hữu có
thói quen tính thời gian khởi đi từ hoàng đế
Điôclêtianô (284-305 CN), ông này đã bách hại họ tàn
khốc, và họ gọi thời này là kỷ nguyên các thánh
tử đạo. Kiểu lịch chúng ta đang sử
dụng hiện nay là do văn sĩ Denys le Petit xác
định, ông này sống tại Rôma vào tiền bán thế
kỷ vi (mất trước năm 555). Để cho
những năm cứu độ không phải gọi
bằng tên của bạo chúa bách hại, Denys thay thế
kỷ nguyên các thánh tử đạo bằng kỷ nguyên
Đức Kitô. Ông là người đầu tiên cho kỷ
nguyên Kitô giáo khởi đầu với cuộc chào
đời của Đức Kitô, mà theo các tính toán của
ông, ngày ấy là ngày 25 tháng 12 năm 753 sau khi Rôma
được thành lập. Theo TM Mt, “Đức Giêsu ra
đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua
Hêrôđê trị vì” (2,1), mà chúng ta biết rằng vua Hêrôđê
qua đời vào năm 750 của thành Rôma. Như vậy,
cuộc chào đời của Đức Giêsu phải
được đẩy lùi lại 6 hoặc 7 năm:
hẳn là Đức Giêsu đã ra đời vào thời gian
giữa năm 8 và 6 tCN.
- mấy nhà chiêm tinh (HL.
magos): Đây là những vị hiền giả Đông
phương, thông thạo chiêm tinh. Rất có thể họ
là những nhà chiêm tinh Babylon, đã được tiếp
xúc với trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia
nơi dân Do Thái. Có thể họ sống bên kia bờ sông
Giođan, nên có cơ hội tiếp xúc thường xuyên
với thế giới Do Thái. Dưới ảnh
hưởng của Tv 72,10; Is 49,7; 60,10, truyền thống
sau này đã nghĩ rằng họ là những vị vua.
Bởi vì có ba loại lễ vật, người ta cho
rằng họ là ba vị (thế kỷ v), và còn gán cho các
vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior (thế kỷ viii).
Sang thế kỷ xiv, ông Gaspar được coi là một
người da đen…
- chúng tôi đã thấy vì sao
(2): Vào thời thượng cổ, người ta
thường cho rằng cuọc chào đời của các
nhân vật quan trọng được loan báo bởi các
ngôi sao mới. Các nhà chiêm tinh cho rằng họ có thể
đoán được vận mệnh của người
ta nhờ quan sát chuyển động của các tinh tú. Do
Thái giáo cũng nối kết niềm hy vọng thiên sai vào
ngôi sao được nói tới ở sách Dân số (24,17).
Có thể nói, vào thời Đức Giêsu và các Tin Mừng,
ngôi sao là hình ảnh ưu tiên để tượng
trưng Đấng Mêsia, đặc biệt Đấng
Mêsia vương giả, xuất thân từ nhà Đavít.
- xuất hiện (2):
Người ta đã tìm cách xác định ngôi sao ấy là
một hiện tượng thiên văn hay là một ngôi sao
chổi. Thật ra nỗ lực này cũng không đưa
đến đâu, bởi vì hoặc tác giả Mtmuốn
kể lại một hiện tượng lạ lùng duy
nhất trong lịch sử, hoặc chi tiết này chỉ
là một đặc điểm văn chương,
được gợi hứng bởi Kinh Thánh, nhưng không
có hiện tượng tương ứng thế giới
vật lý, nên cố gắng tìm ra một giải thích
tự nhiên đều là chuyện vô ích.
- Cả thành Giêrusalem (3):
Đây là một kiểu nói phóng đại, như
để báo trước việc toàn dân Do Thái loại
trừ Đức Giêsu (x. 21,10). Một sự tương
phản đáng kinh ngạc: những người ngoại
giáo, được hướng dẫn bởi những
kiến thức hời hợt, pha trộn mê tín dị
đoan, đã đáp trả tiếng gọi của Thiên
Chúa, thực hiện một hành trình và điều tra
kỹ lưỡng, để có thể bái kiến vị
tân vương; ngược lại, các nhà lãnh đạo Do
Thái có ánh sáng Kinh Thánh, lại chỉ phản ứng
bằng sự sợ hãi và vô tâm (cc. 4-6).
- Các thượng tế
(archiereis, 4): Archiereis đây là các thành viên của các gia
đình mà vào lúc quy định nào đó, vua Hêrôđê có
thể chọn ra người mà bổ nhiệm làm
thượng tế.
- kinh sư trong dân (4):
dịch sát grammateis tou laou là “các kinh sư của dân chúng”:
một kiểu nói phóng đại.
- Phần ngươi, ngươi
đâu phải (6): Câu trích này là một tổng
hợp Mk 5,1-3 với 2 Sm 5,2 theo cách rất độc
đáo, không tương ứng với bản văn
Cựu Ước Híp-ri lẫn Hy Lạp. Tác giả đã
đưa những thay đổi đó vào với mục
tiêu huấn giáo. Đặc biệt, với trạng từ
oudamôs(Pháp: pas du tout; Anh: by no means) thêm vào bản văn Mikha,
ngài cho thấy ngài chú tâm đọc Cựu Ước
dưới ánh sáng của đức tin Kitô giáo của ngài:
sau khi Đức Giêsu đã chào đời, Bêlem không còn có
thể là một thành không đáng kể nữa. Nghịch
lý lạ lùng: các kinh sư loan báo nơi Đấng Mêsia chào
đời cho những người ngoại giáo (dù sao,
họ cũng vẫn là những cái máng chính thức
truyền đạt mạc khải mà!), thế mà họ
lại không thể nhận ra được Người!
- mừng rỡ vô cùng (10):
Niềm vui của các nhà chiêm tinh được nhấn
mạnh (so với Lc 2,10). Trong TM Mt, đây là niềm vui
của những quốc gia ngoại giáo đã khám phá ra
nơi Đức Giêsu ơn cứu độ họ
vẫn trông chờ cách mơ hồ. Đối lại
với niềm vui này là sự bối rối hoang mang
của vua Hêrôđê và thành Giêrusalem, cũng như sau đó
là cơn giận dữ điên cuồng của nhà vua (c.
16). Cũng có thể so sánh niềm vui lớn lao của các
phụ nữ vào sáng ngày Phục Sinh (28,8) với cơn kinh
hoàng của đám lính canh khiến họ ra như chết
(28,4).
- Họ vào nhà (11): Tác giả
nối kết chặt chẽ niềm vui của những
người ngoại giáo và việc họ đi vào “nhà”, là
hình ảnh báo trước Giáo Hội, nơi người
ta gặp được Đức Kitô và bái thờ
Người.
- hài nhi và thân mẫu: Công
thức này được nhắc lại ở các câu 13,
14, 20 và 21, là do tác giả cố tình chọn để
nhắc lại cuộc sinh hạ do mẹ đồng trinh
(1,18-25).
- sấp mình thờ lạy
(= bái lạy: cc. 2.8.11): “Bái lạy” hay “sấp mình thờ
lạy” (proskyneô) được tác giả Mt dùng
động từ này 13 lần (toàn Tân Ước: 57
lần). Đây là hành vi sấp mình trên nền nhà để
tôn thờ thần thánh hoặc những người có
địa vị cao, chẳng hạn các vua. Tác giả Mt
hầu như chỉ dùng động từ này để
diễn tả lòng tôn kính đối với Đức Giêsu
bởi những người khẩn cầu (8,2; 9,18; 15,25;
x. 20,20) và bởi các môn đệ (14,33: liên kết với
việc tuyên xưng niềm tin vào Con Thiên Chúa), đặc
biệt dành cho Đấng Phục Sinh (28,9.17).
- lấy vàng, nhũ hương,
mộc dược mà dâng tiến: Sau khi bái lạy
một vị vua, thường có việc dâng lễ vật
(x. St 43,26; 1 Sm 10,27; 1 V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ lễ vật
này đều xứng đáng với một vị vua: x. Tv
72,15 (vàng); Is 60,6 (vàng và nhũ hương); Tv 45,8 (xức
mộc dược cho vua); Dc 3,6 (nhũ hương và
mộc dược). Truyền thống các Giáo Phụ coi các
lễ vật này là những biểu tượng về
vương quyền (vàng), thần tính (nhũ hương)
và việc mai táng (mộc dược) của Đức
Giêsu.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
* Giới thiệu các nhân vật và
hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu của các
nhà chiêm tinh (1-2)
Chỉ trong một câu duy nhất, tác giả
đã giới thiệu được khung cảnh
địa lý, hoàn cảnh chính trị, và các nhân vật
sẽ được đề cập đến trong
bản văn. Chủ đề của chương 2,
“vương quyền của Đấng Mêsia”, đã
được gián tiếp gợi lên qua tước
hiệu “vua” gán cho Hêrôđê, một danh từ liên tục
được nhắc lại suốt bài này.
Chủ đề lại được nêu
lên trong câu hỏi của các nhà chiêm tinh (c. 2). Các vị này
là những nhà chiêm tinh văn, chứ không phải là “vua”.
Đặc biệt trong môi trường Mêsôpôtamia, hai ngành
thiên văn và chiêm tinh đã có từ lâu đời và
rất được trọng dụng. Các biến cố
xảy ra trên bầu trời và trong thế giới loài
người được coi là có liên hệ chặt
chẽ với nhau. Người ta xác tín rằng ai hiểu
các hiện tượng của bầu trời thì cũng
hiểu lịch sử loài người và có thể ban các
lời khuyên và những định hướng về
lịch sử này. Các nhà chiêm tinh này có khả năng
giải thích các giấc mộng và thấy trước
tương lai bằng cách nhìn xem các vì tinh tú và quan sát cánh
chim bay. Các vị cũng có khả năng biện phân ra ý
muốn của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, làm thế nào mà các nhà chiêm tinh vừa
ngoại quốc vừa ngoại giáo lại có thể
đi tìm vua dân Do Thái như thế, trên đất Paléttina?
Vào thời cổ, có một niềm tin nói rằng cuộc
chào đời của một nhân vật quan trọng
sẽ được báo cho biết bởi một ngôi sao
trên trời. Trong lãnh vực nghiên cứu của họ, các
nhà chiêm tinh nhận được một thông tin cho
biết Đấng Mêsia đã chào đời và họ
được thúc đẩy lên đường. Các nhà
chiêm tinh đã thấy ngôi sao được Kinh Thánh
nhắc tới, chứ không phải là một ngôi sao
chổi hay một ngôi sao nào trong bầu trời vật lý.
Các vị biết rằng, một đàng, Ds 24,17 khẳng
định về Đấng Mêsia xuất thân từ nhà
Giacóp, đàng khác, có một truyền thống song song,
dựa trên Ds 24,7 (bản dịch Hy Lạp LXX), khẳng
định rằng Đấng Mêsia sẽ trị vì trên
nhiều dân tộc. Các vị biết rằng dân Do Thái
đang chờ đợi Đấng Mêsia. Từ thời
Lưu đày Babylon, đã có nhiều người Do Thái
sống trên đất Mêsôpôtamia; nhờ họ,
người ta biết tôn giáo và các niềm chờ mong Do
Thái.
Khi kể câu truyện Các nhà chiêm tinh, tác
giả Mátthêu không quan tâm đến cuộc hành trình của
các vị ấy; ngài chỉ chú ý đến cuộc
đối đầu của các vị ấy với vua
Hêrôđê. Ngài cũng muốn nói với chúng ta rằng
cuối cùng Đấng giải phóng nhà Giacóp đã tới.
Các nhà chiêm tinh nhận ra Người và thờ lạy
Người. Đức Giêsu chính là ngôi sao ấy. Chúng ta
đọc diễn tiến câu truyện.
Đến Giêrusalem, các vị ấy
tưởng là đã đạt mục tiêu, nhưng lại
được gửi đi đến một nơi khác.
Nhưng bây giờ các vị ấy đã biết mục
tiêu cách chính xác hơn. Các kinh sư là những chuyên viên Kinh
Thánh (x. 23,2t), đã có thể suy ra là Đấng Mêsia chào
đời tại Bêlem xứ Giuđê. Trong Mk 5,1-3,
Đấng Mêsia được giới thiệu như là
Thủ Lãnh và Mục tử của dânIsrael. Người
sẽ chỉ cho dân Người biết con đường
ngay thẳng và sẽ lo lắng chăm sóc họ, như
một mục tử săn sóc các chiên mình. Chúng ta lưu ý
là các nhà chiêm tinh hỏi nơi sinh của “vua dân Do Thái”,
chứ không phải là “vua Israel”. Các kinh sư của dân (Mt
2,4) được Đấng Mêsia đến chiếu
cố, đã ở lại Giêrusalem; trong khi đó, các nhà
chiêm tinh, là những người ngoại giáo, đã kiên trì
theo đuổi mục tiêu, họ tiếp tục cuộc hành
trình.
Hai phần sau đây tương ứng
với hai “chương trình xung đột” (cũng có trong
cc. 13-23) tác giả muốn tường thuật: sự
đối lập giữa hai nơi, Bêlem/Nadarét và Giêrusalem;
một bên là chiến lược của vua Hêrôđê
tại Giêrusalem, bên kia là chiến lược của Thiên
Chúa; vua Hêrôđê không những đối lập với
Đức Giêsu, mà cũng đối lập với các nhà
chiêm tinh nữa. Sự đối lập giữa hai vị
vua được nêu bật bởi ngôi sao: ngôi sao không
được nhắc đến ở Giêrusalem, nhưng
dẫn đường cho các nhà chiêm tinh sau khi họ
rời Giêsusalem.
* Gặp gỡ Hêrôđê, vị vua
“giả hiệu” của người Do Thái (3-9a)
Sự việc xảy ra ở đền vua
Hêrôđê gián tiếp giới thiệu Đấng Mêsia
vương giả bằng câu sấmMk 5,1-3 kết hợp
với 2 Sm 5,2. Bây giờ vua Hêrôđê và “cả thành
Giêrusalem” được đặt trong thế đối
lập với các nhà chiêm tinh. Phản ứng bối
rối dao động của họ là một bằng
chứng cho thấy họ hiểu tính nghiêm trọng
của hoàn cảnh. Vua Hêrôđê và toàn dân Giêrusalem thuộc
nhóm loại trừ vị tân ấu vương.
Một vài điểm không thật (vua
Hêrôđê và dân Giêrusalem không ưa gì nhau nên hẳn là dân chúng
hẳn phải vui mừng khi biết Đấng Mêsia
vừa chào đời thì mới hợp lý – Nhà vua phải
hỏi về nơi Đấng Mêsia sinh ra, mà nơi này thì
mọi người đều biết, vậy mà không
một ai tò mò đi với các nhà chiêm tinh đến Bêlem
cả – Vua Hêrôđê triệu tập toàn thể
Thượng Hội Đồng Do Thái chỉ để xin
một thông tin – Ngôi sao chỉ đúng nhà của Đức
Giêsu – Dân cư Giêrusalem “xôn xao”…) khiến nhiều tác
giả cho rằng đây chỉ là một sáng tác văn
chương mà thôi. Nhưng dù được tưởng
tượng hay không, câu chuyện này minh họa thật rõ
việc dân Do Thái loại trừ Đức Giêsu và Dân
ngoại đón tiếp Người. Đối với tác
giả Mt, Giêrusalem là thành sẽ xảy ra cuộc đóng
đinh; dân Giêrusalem là những người sẽ nói về
cuối quyển Tin Mừng, “Máu hắn cứ đổ
xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (27,25). Sự
bối rối của vua Hêrôđê và dân Giêrusalem ở
đây báo trước thái độ thù nghịch trong
cuộc Thương Khó (x. 27,11.29.37.42). Ở đây, vua
Hêrôđê, các thượng tế và kinh sư đã hiểu
“Vua dân Do Thái” chính là “Đấng Kitô [Mêsia]”.
Câu trả lời về “Đức Vua dân Do
Thái” là câu trích Mk 5,1, nhưng tác giả đặt trên môi các
kinh sư, chứ không dùng công thức về hoàn tất
Lời Chúa. Câu này cung cấp một nền móng Cựu
Ước cho khởi đầu cuộc đời
của Đức Giêsu về mặt lịch sử và
tiểu sử. Nhưng đây không phải là điều
ngài quan tâm đầu tiên. Điều ngài chú ý hơn, đó
là dùng hai lần từ “Giuđa” và thêm 2 Sm 5,2 (x. 1 Sbn 11,2)
vào với từ móc laos (“dân chúng”) để khẳng
định quan điểm chống Do Thái của ngài: các
kinh sư Do Thái nhìn nhận rằng đây là vấn
đề về vị mục tử thiên sai vẫn
từng mong đợi của dân Thiên Chúa là Israel, nhưng
họ không rút ra các hệ luận; vì vậy họ gián
tiếp trở thành đồng lõa của vua Hêrôđê.
Thế là vua Hêrôđê “hỏi cặn kẽ
về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện”. Câu 7 này
đưa chúng ta đến với câu 16 được
viết tương tự. Độc giả có linh cảm
một chuyện chẳng lành sắp xảy ra, khi thấy
nhà vua hỏi chi tiết về nơi Hài Nhi ở. Câu
trả lời chính là sự tàn bạo bí hiểm của nhà
vua được chứng tỏ sau đó. Câu 8 lại cho
độc giả nhận ra nhà vua là một kẻ
đạo đức giả. Đồng thời, nền
tảng của c. 12 được cung cấp: vua Hêrôđê
muốn kéo các nhà chiêm tinh vào trò chơi của ông; nhưng ý
định xấu xa của ông sẽ bị Thiên Chúa can
thiệp tiêu hủy.
* Gặp gỡ Ấu Vương
“chân chính” tại Bêlem (9-12)
Các nhà chiêm tinh ra đi ngay ban đêm, không
phải vì đó là thói tục của Đông phương,
nhưng để tác giả lại có cơ hội nói
về ngôi sao. Tại đây, độc giả lại
nhận ra Thiên Chúa ra tay hướng dẫn toàn thể
biến cố, và được mời gọi chia sẻ
niềm vui chan hòa các nhà chiêm tinh đang trải nghiệm.
Chủ đề của bài Tin Mừng
được trình bày rõ ràng qua việc các nhà chiêm tinh bái
lạy Hài Nhi Giêsu và dâng các lễ vật (c. 11). Đây
mới là vị vua chân chính mà muôn dân vẫn trông
đợi, dù tước “vua” không hề được
dùng mà gọi Người. Nhưng chủ đề
“vị vua thật” chạy xuyên suốt bản văn do các
từ ngữ (“Vua dân Do Thái”: c. 2; “vì sao của
Người”: cc. 2.7.9.10; “vua Hêrôđê: c. 3; “Hêrôđê”: cc.
7.12; “bái lạy”: c. 8; “nhà vua”: c. 9) và các cụm từ (“vì
ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel
dân Ta sẽ ra đời”: c. 6; “sấp mình thờ lạy”:
c. 11; “lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà
dâng tiến”: c. 11)[1] liên hệ.
Các nhà chiêm tinh, là những người khôn
ngoan và giàu kinh nghiệm, đã phủ phục (proskyneô)
trước Hài Nhi, một trẻ sơ sinh không hề
tỏ ra có chút uy hùng hay quyền lực gì. Đây là cách
người Đông phương nhìn nhận Đấng có
quyền trên mình, mình lệ thuộc phần nào hay hoàn toàn
vào đấng ấy (là vua chúa hay thần linh). Nhưng chúng
ta nhớ Đức Giêsu đã được giới
thiệu là “con cháu vua Đavít” (1,1), “Con Thiên Chúa” (x. 1,21; 2,15)
và Emmanuel (1,23). Hài Nhi không nói gì với các vị ấy và
cũng chẳng cho các vị ấy món gì cả. Các vị
không thấy vẻ huy hoàng chúa tể của Người,
cũng chẳng trải nghiệm về quyền lực
của Người, nhưng các vị nhận biết
Người nhờ lòng tin. Tác giả bỏ qua ông Giuse
để nêu bật địa vị đặc biệt
của bà Maria theo chiều hướng của Mt 1,18-25. Các
lễ vật quý giá (vàng, nhũ hương và mộc
dược) các vị dâng là một dấu chỉ khác
chứng tỏ các vị nhìn nhận Hài Nhi là Chúa tể.
Chủ đề được khóa lại
với tên “Hêrôđê”, vị vua đương trị,
được nhắc lại lần nữa và với
việc các nhà chiêm tinh từ biệt Hài Nhi. Vua Hêrôđê
đã muốn nối kết các nhà chiêm tinh vào các kế
hoạch của ông, và các kế hoạch này là thế nào thì
cuộc sát hại các hài nhi Bêlem sẽ cho biết; và
hẳn là các nhà chiêm tinh sẽ chịu cùng một số
phận như các hài nhi. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã can thiệp,
để đưa các nhà chiêm tinh về quê theo
đường khác.
+ Kết
luận
Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận
ra có sự đối đầu của hai vương
quyền, vương quyền của Thiên Chúa và
vương quyền của loài người. Bản văn
cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của
những con người đói khát ơn cứu độ,
đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con người
sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn
đề. Hai bên đều tiến đi, để
rồi đến cuối con đường, một bên
được hưởng niềm vui cứu độ,
một bên co quắp lại trong thái độ thù
nghịch. Chỉ khi vương quyền của con
người biết nhìn nhận mình phát xuất từ
vương quyền của Thiên Chúa, khi đó mới có
sự “bình an dưới thế cho loài người Chúa
thương”.
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Truyện này gây ra hai ấn tượng.
Một bên, chúng ta muốn coi toàn bộ như một
huyền thoại: cuộc hành trình dài ngày của các nhà chiêm
tinh, ngôi sao dẫn đường, nỗi bối rối
của nhà vua và toàn thể dân thành Giêrusalem, mưu mô của
vua Hêrôđê, cuối cùng lệnh của Thiên Chúa ban cho các
nhà chiêm tinh trong mộng, tất cả những nét này
khiến chúng ta có ấn tượng là truyện không
thật. Nhưng ngược lại, nếu so sánh
truyện này với những gì ta biết về vua
Hêrôđê và xứ Paléttina thời ấy, chúng ta lại
phải nhìn nhận truyện có màu sắc lịch sử:
sự lưu tâm của các nhà chiêm tinh phương Đông
về một vị vua cứu thế và những cơn
điên khùng bệnh tật của vua Hêrôđê hoàn toàn phù
hợp với truyện. Nhưng “đúng” không nhất
thiết là “thật” về lịch sử. Cho dù các biến
cố đã xảy ra thật, các truyện trong
chương 2 Mt cũng không mang tính lịch sử theo
nghĩa hẹp. Dường như tác giả đã sử
dụng thể văn midrash haggada để giải thích
các sự kiện có thật hầu rút ra một áp dụng
Kinh Thánh, để đi tới việc ca tụng Thiên
Chúa, khám phá ra một mạc khải về những
chương trình của Thiên Chúa trong quá khứ và cho
tương lai, nhằm xây dựng cọng đoàn.
2. Có những điểm “khôi hài” trong bài:
Sự khôn ngoan của Dân ngoại mà người Do Thái
vẫn loại trừ hoặc khinh bỉ cũng có thể
đưa người ta đến với Đức Kitô.
Đấy là khi các nhà chiêm tinh đến đền vua
Hêrôđê và hỏi về nơi trú ngụ của
“Đức Vua mới sinh”. Đàng khác, chính một vị
vua gian ác ngoại quốc (vì Hêrôđê thuộc gốc dân
Iđumê) cũng có thể trở thành trung gian cung cấp
cho người ta những thông tin chính xác. Đấy là khi
vua Hêrôđê triệu tập các thượng tế và kinh
sư lại để hỏi cho biết Đấng Kitô
sinh ra ở đâu.
3. Có hai chuyển động ngược
chiều trong bài: Vua Hêrôđê càng ngày càng co quắp lại
trong thái độ cứng tin và từ khước, và cùng
với nhà vua là Thượng Hội Đồng Do Thái và dân
Giêrusalem, còn các nhà chiêm tinh thì đã từ những
bước mò mẫm mơ hồ đi đến chỗ
bày tỏ tất cả lòng tin kính đối với
Đấng Mêsia. Vì thế sau đó, các vị “đã đi
lối khác mà về xứ mình” (c. 12). Cũng nên dừng
lại suy nghĩ về lối ứng xử của các
kinh sư: họ đã có thể trích và giải thích đúng
Kinh Thánh, nhưng họ không hề lên đường. Thánh
Âutinh bảo rằng họ là “những cột cây số”; họ
chỉ đúng đường, nhưng họ không di
chuyển!
4. Các nhà chiêm tinh đã nhận
được sự thúc đẩy đầu tiên khi
nghiên cứu thiên văn. Đến Giêrusalem, các vị
lại nhận được một thông tin chính xác
hơn rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm
lấy quyết định lên đường và cứ dò
dẫm từng bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt
các vị đạt tới mục tiêu bằng “ngôi sao”
dẫn đường. Bởi vì các vị không kháng cự
lại và không quản ngại mệt nhọc, trái lại
đã chấp nhận được hướng dẫn,
các vị đã vui sướng đạt tới mục
tiêu. Thiên Chúa luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm
ơn cứu độ, dù đôi khi người trong
cuộc cảm thấy đường đi không rõ và
mục tiêu mịt mù.
5. Các nhà chiêm tinh không thấy vinh quang hay uy
quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái
lạy mà nhìn nhận Người là Chúa tể, là
Đức Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì
các vị tin. Đức tin cần thiết cho từng
bước đi tới chỗ nhận biết
Đức Chúa, ở đây được các nhà chiêm tinh
diễn tả ra trong tình trạng tinh trong. Dựa vào ba
lễ vật, qua các thời đại, người ta
đã tưởng tượng là có ba nhà chiêm tinh, có tên rõ
ràng, một vị trẻ tuổi, một vị
đứng tuổi và một vị đã già; một
vị là người châu Á, một vị là người
châu Âu và một vị châu Phi. Cách làm này không tương
ứng với chữ viết của bản văn
nhưng phù hợp với tinh thần của Tin Mừng.
Tất cả các lứa tuổi và con người của mọi
châu lục đều đạt tới mục tiêu khi
gặp Hài Nhi này, nhất là khi nhìn nhận Người là
Đức Vua và Đức Chúa của họ. Người
đã đến cho mọi người, cho người
trẻ cũng như cho người già, cho người
thông thái cũng như người chất phác ít học,
cho mọi màu da và mọi lối sống, để giúp
họ nhận biết Thiên Chúa là Cha và đưa vào
cuộc đời họ một ánh sáng chói chan. Như các
nhà chiêm tinh, loài người không được để
mình đi trệch đường về với
Đức Giêsu, mà phải để cho Thiên Chúa
hướng dẫn, cho đến khi tới đích.
6. Phải chăng nên gỡ bỏ các ngôi sao
tại các máng cỏ? Không cần! Chúng ta cứ việc
ngắm nhìn ngôi sao ấy, cứ chỉ cho con em thấy,
nhưng bảo các em rằng ngôi sao đích thật là
Đức Giêsu. Người chính là ánh sáng soi chiếu
mọi dân tộc. Cũng giải thích cho chúng biết
rằng các nhà chiêm tinh là đại diện cho các dân
tộc trên thế giới đang để cho sứ
điệp hòa bình và tình yêu của Đức Giêsu
hướng dẫn. Họ chính là hình ảnh của
Hội Thánh, được tạo nên do các dân tộc
thuộc mọi giống nòi và mọi ngôn ngữ. Trở
nên một thành viên của Hội Thánh không có nghĩa là
đánh mất hoặc bỏ đi chân tính của mình, không
có nghĩa là phải quy phục một thứ “đồng
nhất” giả tạo và bất công. Các dân tộc cần
phải duy trì nền văn hóa của họ và làm giàu cho
Hội Thánh bằng nền văn hóa riêng này.
|