Con đường
đức tin
(Suy
niệm của Thanh Thanh - Tinvui.org)
I. Chú
giải
- Địa lý: Belem, nơi Chúa sinh ra là
một thôn làng nhỏ cách Giêrusalem 6 dặm về phía nam. Itrael thời ấy
bị đế quốc Rôma đô hộ. Hêrôđê
được Rôma bổ nhiệm cai
trị xứ Paléttin 40 năm trước công nguyên. Ông nổi tiếng là người tàn bạo.
- Dân chúng: thời đó
họ tin rằng mỗi người có một ngôi sao
chiếu mệnh. Ba nhà đạo sĩ
đến từ vùng Tiểu Á. Họ là những
người thông thái. Sở
trường của họ là nghiên cứu về khoa chiêm
tinh và được xem là cố vấn của nhà vua
về đời và đạo. Họ theo
ánh sao đi tìm sự xuất hiện của một
Đấng Cứu Thế.
- Lễ vật:
Ù Vàng: thời xưa, vàng có tính cách quý báu
và cao sang, chỉ dành cho vua chúa. Vàng có ý nói hài
đồng Giêsu là Vua.
Ù Nhũ hương: trầm hương
chỉ dùng trong việc tế lễ. Hơn
thế nửa, trầm hương ở đây nói lên
sự ca ngợi và thờ lạy. Trầm
hương có ý nói Chúa hài đồng là Thiên Chúa.
Ù Mộc dược: mộc dược
dùng để chữa lành người bệnh và tẩm
liệm thi thể người chết thời đó.
Mộc dược nói lên nhân tính của hài nhi
và cái chết sau này của Chúa Giêsu.
II. Con
đường đức tin
1. Hành trình của các đạo sĩ là
hình ảnh minh họa cho hành trình cho mọi người
tin:
- Đường đức tin
đầu bằng một điều gì đó lạ lùng
khiến người ta chú ý, như ánh sao lạ chẳng
hạn, dấu lạ này mời gọi ta từ bỏ
nếp sống đã quen để dấn thân đi tìm
một cái gì đó cao hơn, tốt đẹp hơn.
- Kế đến là những
bước thăng trầm trong cuộc hành trình, như ánh
sao có lúc sáng tỏ trên bầu trời, có lúc nó vụt
biến mất. Nhưng nếu ta kiên trì
tiến bước thì cuối cùng ta sẽ gặp được
Chúa.
2. Tiến bước
Có người ngồi một chỗ
như Hêrôđê. Nhưng cũng có người đi tìm kiếm
như đạo sĩ, lên đường như Abraham.
Chúa ở đâu? Ở khắp mọi nơi: trong làng
quê heo hút, trong xóm làng, trong gia đình nghèo khó, trong những
người ta gặp gỡ hằng ngày, nhất là
những người đói khát, bệnh tật. Thiên Chúa ở nơi những người biết
mở lòng đón nhận Ngài. Muốn biết Ngài ra
sao thì: “Khi Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn, Ta khát
các người đã cho Ta uống… Ta bảo các
ngươi: mỗi lần các ngươi làm cho một
trong những kẻ bé nhỏ nhất là anh em Ta đây, là
các ngươi làm cho chính Ta" (Mt 25,35-40).
Các luật sĩ, các thầy
thượng tế hiểu kinh thánh lắm chứ,
nhưng họ chỉ biết trưng dẫn, còn thực
hành thì không. Hay Hêrôđê
thì dùng Kinh Thánh để tìm cách giết Hài nhi, còn các các
đạo sĩ thì, bản thân chẳng biết Kinh Thánh,
chỉ được Hêrôđê chỉ dẫn, đã lên
được tìm kiếm Đức Giêsu và họ đã
gặp Người
3. Khó khăn và thuận lợi
Nhà đại thiên văn Kepler khám phá ra
rằng vào năm Chúa Giáng sinh, có một hiện
tượng bất bình thường xảy ra giữa các
vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng: Bình
thường chúng vẫn quay cách đều nhau. Năm
đó chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh
sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng
của ngôi sao kia, tạo ra một
luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả
mấy tháng.
"Chúng tôi đã thấy ngôi sao của
Người xuất hiện bên phương Đông" (Mt 2,2).
Người xưa cho rằng ngày ra
đời của các vĩ nhân
thường được báo hiệu bằng sự
xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh
thường nghiên cứu những chuyển động của
các vì tinh tú để đoán biết định mệnh
con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi
sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh
hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Thực sự, người Do thái đã
trông đợi Đấng Cứu Tinh từ nhiều
thế kỷ, Đấng ấy được ví như
một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh thánh:
"Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một
vương trượng chỗi dậy từ Israel"
(Ds 24, 17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo: "Hỡi Bêlem
Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc
Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất
hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen " (Mk 5,1).
Thiên Chúa đã dùng cột mây cột
lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong
hoang địa về đất hứa, thì Người
cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các
đạo sĩ đến Belem để gặp Đấng Cứu
Tinh. Thế nhưng, thật trớ trêu là: vị Cứu
Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ,
dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các
thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ
động, cho dù họ hiểu Kinh thánh và biết rõ
nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê
lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình
bị lung lay.
Đại diện cho lương dân, là
đạo sĩ hăng hái lên
đường tìm kiếm. Nên sau này, Đức Giêsu đã
phải thốt lên: "Từ phương Đông
phương Tây, nhiều người sẽ đến
dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, lsaac và Giacóp trong
Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì
sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài"
(Mt 8,11-12).
Lễ Hiển linh hôm nay giúp ta nhìn
lại chính mình:
Nếu ta đang đi trong bóng tối
của gian dối, hận thù, thì hãy trở thành ánh sao
của chân thành, phục vụ và yêu thương. Nếu thế giới đang chìm
đắm trong bóng tối của buồn phiền,
thất vọng thì ta hãy là những ánh sao của niềm
vui, an bình và hy vọng.
Chúa gọi ta: "Chúng con là ánh sáng
thế gian" (Mt 5, 14), thì đó là một vinh dự vô cùng
lớn lao, nhưng cũng là một trách
nhiệm nặng nề. Ta đừng nguyền rủa bóng
tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn
nến sáng của tin yêu và hy vọng, của bác ái và vị
tha, để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng
tình yêu Chúa.
Ta hãy tin vào Lời Chúa. Tin là dựa vào
Chúa để dấn thân và vượt qua gian nan thử thách.
Các đạo sĩ khi nhìn thấy ánh
sao lạ, họ đã tin tưởng vào một
Đấng Cứu Tinh mà ngôi sao là dấu chỉ, họ
vội vã lên đường mà không biết ngôi sao sẽ
dẫn đi đâu. Khi ánh sao biến mất
họ không thất vọng, không bỏ cuộc, nhưng dò
hỏi kiếm tìm. Hành trình của
họ là hành trình Đức tin, con đường của
họ là con đường thánh giá. Để
trắc nghiệm đức tin, cần phải xem phản
ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải
lúc đời lên hương, thuận buồm xuôi gió.
III.
Truyện minh hoạ, ông vua thứ tư
Có một truyền thuyết cho rằng
những người khách từ phương Đông tìm
đến thờ lạy Chúa Hài Đồng là 3 vị vua,
tên là Gaspar, Balthasar và Melchior. Có một
truyền thuyết khác lại cho rằng ngoài 3 vị
ấy, còn một vị vua thứ tư nữa, tên là
Artaban. Sau đây là truyền thuyết
về ông vua thứ tư ấy.
Cũng như 3 vị vua kia,
Artaban thấy ngôi sao lạ. Sau khi chuẩn bị lễ
vật gồm một viên bích ngọc, một viên hồng
ngọc và một viên ngọc trai, ông lên đường
đến điểm hẹn cùng 3 vị kia.
Tuy nhiên dọc đường ông gặp
một người bị thương nặng nằm bên
vệ đường, ông dừng lại đưa
người đó đến một quán trọ và nhờ
người chăm sóc. Khi đến điểm
hẹn thì 3 vị kia đã đi mất
rồi.
Đến Bêlem cũng trễ, Thánh Giuse
và Đức Maria đã đem Chúa Hài đồng lánh
nạn sang Ai cập. Artaban đành tìm một
quán trọ để nghỉ đêm. Trong
quán ông gặp một người đàn bà bế một
đứa trẻ mới 1 tuổi đang sợ hãi
trốn tránh cuộc lùng bắt của đám lính Hêrôđê.
Dù vậy, cuối cùng đám lính cũng tìm
tới. Artaban ra cửa gặp chúng và
đưa viên hồng ngọc để chúng khỏi vào
trong quán. Ông rất buồn vì lễ
vật định dâng Chúa Hài Đồng chỉ còn có
mỗi một viên ngọc trai. Viên bích ngọc cũng
đã đổi lấy lạc đà để đi qua sa mạc.
Ông tiếp tục lên đường
tìm Chúa Hài Đồng. Nhưng ông luôn bị trễ: nghe tin
Đức Giêsu đang ở đâu ông đều tìm
đến, nhưng khi đến nơi thì Ngài đã đi
nơi khác. Khoảng 30 năm sau, ông
đến Giêrusalem. Ông hốt hoảng khi nghe tin
người ta sắp đem Đức Giêsu đi đóng
đinh trên đồi Golgotha. Ông vội vã tìm
đến, hy vọng là với viên ngọc trai còn lại,
ông có thể cứu sống Ngài. Tuy nhiên
trên đường đến Golgotha, ông gặp một cô gái
đang bị quân lính rượt bắt. Cha của cô thiếu
nợ quá nhiều nên người ta định bắt cô
để bán làm nô lệ trừ nợ. Artaban
đưa viên ngọc trai ra, và quân lính để cô gái
được tự do. Giờ đây Artaban chỉ còn
đôi bàn tay trắng.
Chiều hôm ấy, khi mặt trời
bắt đầu lặn, một cơn động
đất khiến các nhà cửa đều rung rinh. Một viên ngói rơi trúng
đầu ông. Thế là ông chết
trước khi đến được ngọn
đồi Golgotha. Ông đã không gặp được Đức Vua
mà bao nhiêu năm qua ông đã khổ cực tìm kiếm.
Vâng, tuy không gặp được Chúa
theo cách thức mình muốn, nhưng xét về
đường đức tin thì Artaban đã thực
sự gặp được Chúa, vì bao nhiêu năm nay Ngài
đã ngự trị trong lòng ông. Ngài đã làm
cho lòng ông thành quảng đại, dạy ông làm những
việc bác ái và luôn duy trì niềm hy vọng trong suốt
cuộc hành trình của ông.
|