NGÀY CHÚA GIÁNG SINH
Việc truyền tin
Chúa Giêsu nhập thể đã là lạ lùng vì tính cách trái
ngược giữa vẻ khiêm hạ bên ngoài với
sự cao cả bên trong. Tính cách trái ngược
này lại còn lạ lùng và nổi bật hơn nơi
việc Người sinh ra.
1) Chúa Giáng Sinh.
Việc Giáng Sinh không
xảy ra tại Nagiarét như thường tình, nhưng là
tại Bêlem, và không phải do một lời nói chính
thức của thiên thần mà bằng mmột biến cố
hoàn toàn trần thế, nghĩa là do sắc chỉ của
Hoàng Đế Rôma. Như vậy Chúa Giêsu ngay
từ ngày mở mắt chào đời đã tỏ ra
phục luỵ quyền hành thế trần, như một
kẻ yếu thế phải chịu khuất phục
kẻ mạnh hơn. Tuy nhiên, đó là công việc
của Thiên Chúa, vì người ta sẽ thấy rằng
ở đây hành động của con người không ai
ngờ lại phục vụ cho kế hoạch của
Thiên Chúa. Hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra nhân
số trong đế quốc lớn lao của ông
để gom thế giới lại thành một, biết rõ
quân số, bảo đảm được sự thu
thuế mà ông cần dùng tới với những
chương trình vĩ đại của ông. nhưng
thực tế, quyền năng thế tục đó bên
ngoài hình như kìm kẹp Chúa Giêsu, thì chỉ là dụng
cụ của quyền năng Thiên Chúa và qua đó,
chương trình Cứu độ được hoàn thành.
Như vậy Chúa
Giêsu đã giáng sinh tại Bêlem trong thành cảu Đavít,
như Tin Mừng đã nhấn mạnh điều đó. Chính nơi đây,
Đavít khi còn là mục đồng, được gọi
về hiến Thánh, thì giờ đây, cũng chính ở
đây, người con đích thực của Đavít lại
sinh ra, Đấng chăn chiên thực sẽ chăn
dẫn bầy chiên Thiên Chúa, Ngài là Đấng
được ưu tuyển ngay trong bản chất thâm
sâu của Ngài và như Đấng Messia, Đấng Thiên
tử, Đấng được xức dầu.
Sắc lệnh
của Hoàng đế Augustô còn kéo theo
một hậu quả khác, đó là việc giáng sinh của
Chúa Giêsu được tác thành và lồng vào lịch sử
thế giới. Người ta xác định
được nơi chốn và thời kỳ xảy ra
việc đó. Đây là một biến
cố lịch sử đích thực (chứ không phải
là chuyện hoang đường hay thần thoại) có
chỗ đứng trong không gian và thời gian. Bên
cạnh Hoàng đế Augustô, muốn mang lại cho thế
giới cơm no áo ấm, với thứ ‘hoà bình của
Rôma’, thì Chúa Giêsu đúng là vị Cứu tinh thực sự
của vũ hoàn vì đã mang đến ‘bình an của Thiên
Chúa’.
Tuy thế, ở
Bêlem, không còn chỗ cho Ngài, nên phải sinh trong chuồng bò
lưà.
Khi nói Chuá không có chỗ trong quán trọ, điều đó
có thể hiểu là, thực sự thì những
người lang thang, không còn chỗ
ở trong quán đó. Nhưng cũng có ý nói, và
đúng hơn, quán trọ là nơi những người
khách lạ tạm trú, thì không phải là nơi xứng
hợp đối với mầu nhiệm Thánh Chúa sinh ra.
Vậy Chúa sẽ đến thế trần,
không mái nhà, trong cảnh đơn côi và nghèo nàn của
chuồng bò lừa. Nôi của Ngài là cái
máng khô, đục vào ngay trong tảng đá để cho bò
lừa ăn. Tin Mừng đặc biệt nhấn
mạnh tới việc Hài nhi
được bọc trong khăn. Cho
thấy rằng bên cạnh cảnh nghèo hèn còn có nhân tính hoàn
toàn, cùng với tất cả sự yếu đuối
của tính con người.
Con đầu lòng
của Thiên Chúa, hay nói cho gọn là Con Một Thiên Chúa đã
đến thế gian này như là một trẻ nhỏ.
Khung cảnh thật đơn giản, thanh bạch, nghèo
hèn. Sự đơn giản và nghèo hèn này ai sánh
được; tuy vậy, lại chẳng có biến
cố nào đáng kể hơn, và tất cả mọi phú
túc sẽ được trao cho Đấng vừa sinh ra. Trước nhan Chúa, đâu cần vẻ hào nhoáng
bên ngoài với tất cả những gì liên hệ tới
nó. Mà phải trái lại, cái vẻ bên ngoài càng lui
đi thì mới càng thấy rõ vẻ lớn lao
bên trong. Tất cả những gì phồn vinh, giả
tạo, khoa trương, chỉ có bên ngoài thôi thì đi
ngược lại bản tính của Chúa Giêsu ngay từ
giờ đầu tiên của ngày Giáng Sinh của Ngài cho
tới lúc cuối cùng với cái chế nghéo hèn và trần
trụi trên cây thập tự.
2) Loan báo tin Chúa Giáng
Sinh.
Các mục
đồng là những người đầu tiên nhận
được sứ điệp. Israel là dân
của các mục tử và Chúa Giêsu chính là Đấng
chăn giữ nhân loại mới. Những hạng
quyền quý sao hiểu được vẻ cao trọng
này, người giàu thì chạy theo
của cải, còn người thông thái thì lại hiểu
sai về sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì
thế những người được gọi
đầu phải là những người chăn chiên khiêm
hạ, nghèo nàn, và là ít học chốn quê mùa.
Nội dung của
sứ điệp là một lời loan tin vui tóm trong ba danh
hiệu: Đấng Cứu Thế, Đấng xức
dầu và là Chúa. Ngài là Đấng Cứu
thế, vì Ngài đến giải phóng những người
không thể tự giúp mình khỏi cảnh đau
thương. Ngài là Đấng xức dầu vì
bản tính nhân loại của Ngài đã được
thánh hiến bằng dầu Thánh của Thiên Chúa: Ngài
trở thành Tư tế, tiên tri và Vua cả. Và Ngài là Chúa vì
mọi quyền năng trên trời dưới đất
đã được ban cho Ngài.
Thật là một
dấu chỉ lạ lùng: ‘Các ngươi sẽ thấy
một Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ’.
Điều nhỏ bé sẽ biểu thị vẻ lớn lao, yếu hèn –vẻ quyền năng và nghèo
khổ– cảnh giàu sang. Việc Chúa Giêsu sinh
ra làm đảo lộn những cái chúng ta đã biết cho
tới khi đó, và làm biến đổi các thực
tại thần thiêng nhờ các phạm trù khác và ứng dụng
chúng vào các quy luật khác.
Sứ điệp
kết thúc bằng ca khúc của các Thiên thần gồm hai
phần, mà mỗi phần gồm ba yếu tố song song
với nhau. Ở phần thứ nhất ta thấy
có ‘trời, vinh danh và Thiên Chúa’. Phần
hai có ‘thế trần, hoà bình và con người’.
Thiên Chúa ở trên
trời sẽ đón nhận danh dự và vinh quang, vì vinh
quang của Ngài vẫn dấu kín, sẽ bộc lộ
nhờ Con Ngài. Còn chính Chúa Giêsu, mà mọi tác
động của Ngài đều mang dấu vô biên sẽ
có thể thực sự tôn vinh Thiên Chúa mà không một
tạo vật nào có thể làm được. Bây giờ ở dưới thế, bình an sẽ
ngự trị vì trời và đất giao hoà trong ơn
thánh. Và tất cả những điều ấy có
được là do lòng từ ái của Thiên Chúa ban cho nhân
loại nhờ Thiên Chúa Nhập Thể.
Như vậy bài ca
của các Thiên Thần là điệp ca trang trọng
của Thánh vịnh về đời sống Chúa Giêsu, bài
ca mang nặng ý nghĩa của một biến cố vĩ
đại đang được thực hiện trên sân
khấu cuộc đời này. Hơn cả một lời
cầu chúc hay lời nguyện xin. ‘Chúc tụng Thiên Chúa’
đó là một lời loan báo và cũng là một lời
tuyên ngôn vệ một sự kiện: vinh danh dâng lên Thiên
Chúa và an bình ban xuống nhân loại. Giờ cứu độ đã điểm, công
việc cứu rỗi đã bắt đầu vì Chúa hoàn
vũ đã sinh ra.
Và đây là kết
quả đầu tiên, các mục đồng quyết
định đón nhận lời loan báo trong niềm tin và
đi theo lời đó. Sau khi tìm
kiếm, họ đã thấy Đức Maria, Thánh Giuse, và
Hài nhi. Sự kiếm tìm
đã không bõ công; họ đã ngạc nhiên, đầy thán
phục.
Qua sự im lặng,
người Mẹ trẻ đã cho thấy sự hân hoan
được diễn tả trong bài Thánh ca ngợi khen
của Mẹ nay nhường chỗ cho một sự suy
niệm đầy an bình, và việc các mục đồng
trở về với đời sống thường
nhật quen thuộc giúp chúng ta nhận ra được là
việc khám phá ra Chúa không có nghĩa là phải có sự thay
đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự biến
đổi sâu xa trong lòng.
Vì thế, trong
cảnh trí này, nổi bật một sự mâu thuẫn:
Chúa Giêsu bị che
dấu nay lại tỏ hiện, bị hạ xuống,
nhưng rồi được tôn vinh; trao cho hai tạo
vật yếu đuối săn sóc, nhưng
được các thiên thần canh giữ; yếu hèn
thực đó, nhưng lại là vị cứu tinh nhân
loại. Hoàn toàn là người trong mọi
sự, nhưng rạng ngời ánh quang của Thiên Chúa.
Trình thuật Kinh
thánh nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn này là giới
thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn của
nhân loại, nhưng qua đó lại chiếu ngời lên
để tôn vinh Thiên Chúa.
|