Vọng và Hy Vọng – Antôn
Lương Văn Liêm
“Nơi hoang
địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu
sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ,
sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng” (Is.35,
1-2).
Hạnh Phúc, Bình An và Hy Vọng, luôn là
điều mà ta mơ ước đạt
được trong nhịp sống hằng ngày.
Đặc biệt là Hy vọng.
Một câu chuyện
ngụ ngôn kể rằng:
Trong một căn
phòng nhỏ khang trang và ấm cúng. Vào một buổi
tối, chủ nhân căn phòng thắp lên 3 ngọn nến.
Ngọn nến thứ nhất sắc màu đỏ, mang tên
Hạnh Phúc, ngọn nến thứ 2 sắc màu vàng mang tên
Bình An, và Hy Vọng mang sắc màu xanh là tên của ngọn
nến thứ 3.
Sau khi đã thắp
sáng ba ngọn nến và đặt chúng gần nhau, chủ
nhân lui ra. Điều đầu tiên là cả ba ngọn
nến đều cảm thấy tự hào vì với ánh
sáng tuy nhỏ bé, nhưng rọi sáng cả một gian phòng,
hơn nữa hơi nóng từ ánh sáng của chúng làm ấm
lên giữa tiết trời đông giá. Sau niềm tự hào
đó, ba ngọn nến cùng tâm sự, kể cho nhau nghe
những điểm nổi bật của bản thân.
Đầu tiên,
ngọn nến Hạnh Phúc cất tiếng tâm sự
với hai bạn rằng:
- Này hai bạn,
đối với cuộc sống của con người,
mình rất quan trọng, vì không có mình thì những
nước mắt và khổ đau, luôn đi theo con
người. Hơn nữa mình rất mạnh mẽ, không
có gì có thể dập tắt mình được. Vì thế
chủ nhân đã cho mình mang sắc màu đỏ.
Ngọn nến
Hạnh Phúc vừa dứt lời, ngọn nến Bình An
tiếp lời:
- Cuộc sống
của con người, nếu không có mình, họ luôn
cảm thấy bất an, lo lắng… đời sống
của họ như chìm vào bóng tối, mình cũng như bạn
rất khỏe và rất mạnh mẽ, mình có thể
chịu đựng và luôn sáng tỏ dẫu có phong ba bão táp
ập đến. Mình mang màu sắc vàng là vì thế.
Cả hai ngọn
nến Hạnh Phúc và Bình An đều cảm thấy
tự hào về những gì mình bộc bạch, tâm sự.
Riêng ngọn nến Hy Vọng, sau khi nghe hai bạn tâm sự.
Ngọn nến Hy Vọng cất tiếng nhỏ nhẹ
rằng.
- Hai bạn ơi!
Hai bạn đều ngang tài ngang sức với nhau, riêng
mình thì chỉ là bóng mờ mà thôi, nhưng mình nghĩ, trong
nhịp sống của con người, nếu vắng bóng
hai bạn, mà không có mình kề bên thì chắc có lẽ
sẽ tồi tệ biết là dường nào phải
không? Tuy mình yếu ớt và mờ nhạt, nhưng mình tin
chắc mình sẽ chịu đựng được, khi
gặp phải những làn gió nhẹ cũng như
mạnh, màu sắc xanh của mình muốn nói lên
điều đó.
Ngọn nến Hy
Vọng vừa dứt lời, hai ngọn nến Hạnh
Phúc và Bình An cảm thấy đắc ý với những gì
mình đang có, cùng cất lên tiếng cười sảng
khoái. Bỗng một làn gió thổi ngang, đầu tiên là
ngọn nến Hạnh Phúc vụt tắt chỉ còn
lại làn khói mỏng manh, kế đến là ngọn
nến Bình An cùng chung số phận, riêng ngọn nến Hy
Vọng, tuy chao đảo nhưng ánh sáng vẫn cứ leo
lét rồi bừng sáng khi cơn gió đi qua.
Sau khi
được chủ nhân thắp sáng lại nhờ ánh
sáng của ngọn nến Hy Vọng, ngọn nến
Hạnh Phúc và Bình An quay sang cám ơn ngọn nến Hy
Vọng và nói: “Cám ơn bạn rất nhiều, may mà có
bạn, tụi này lại được thắp sáng ”.
Vâng! Chính niềm hy vọng là
động lực giúp ta vượt qua những nghịch
cảnh của cuộc sống. Trong cuộc sống
thường nhật, dù là ai, lứa tuổi nào; trình
độ cao, thấp, giàu hay nghèo, đời sống
tận hiến, hay giữa đời thường… Đều
nuôi và dưỡng niềm hy vọng như:
-
Nơi những bậc làm cha làm mẹ,
luôn hy vọng gia đình ấm êm, hạnh phúc, con cái khôn
lờn, khỏe mạnh và nên người.
-
Với tuổi trẻ, luôn hy vọng
một tương lai rực sáng, với những thành công
cả về tri thức, công việc, tình yêu.
-
Những bậc cao niên, sau một
thời bương chải, giờ gối mỏi tay run,
luôn hy vọng có sức khỏe, con cháu sum họp kề
bên, để vui hưởng tuổi già trong bình an và hạnh
phúc.
-
Với những hoàn cảnh như:
Thất nghiệp, nợ nần, thiếu thốn, bệnh
tật hiểm nghèo, bất hòa, chia rẽ… luôn hy vọng
“sau cơn mưa trời lại sáng”.
-
Khi những cám dỗ của tiền,
quyền, danh lợi, lạc thú… đánh gục những
thành viên trong gia đình, và ngay như chính bản thân, luôn hy
vọng một ngày nào đó, người ngã quỵ sẽ
đứng lên để vượt thắng cám dỗ.
Đời người hữu hạn,
luôn hy vọng sau khi từ giã cuộc đời trần
thế, được vui hưởng phúc Thiên Đàng…
Tất cả những niềm hy
vọng đó, đều được thắp sáng
nhờ một Đấng mà khi xưa dân Do Thái đã ngày
đêm ngóng đợi, không chỉ dân Do Thái xưa, nhưng
toàn thể nhân loại qua mọi thời đại, trong
đó có ta vẫn luôn khắc khoải mong chờ. Đó
chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng khơi nguồn hạnh
phúc, bình an và luôn thắp sáng niềm hy vọng cho những
ai đón nhận Ngài là Cứu Chúa của mình. Đây chính là
tâm tình sống mùa vọng.
Nhưng để thực sự
nhận ra Thiên Chúa qua Đức Kitô là Cứu Chúa,
Đấng thắp sáng niềm hy vọng cho ta trong
cuộc sống, là điều không phải dễ,
những lúc yên hàn đã khó, gặp phải những lúc
đắng cay, thử thách, điều này còn khó gấp
vạn lần. Hình ảnh của ông Gioan Tẩy Giả
minh chứng cho ta thấy.
Là một ngôn sứ vĩ đại và
cuối cùng của thời Cựu Ước, một Ngôn
Sứ mà chính Đức Kitô đã nói về ông: “Tôi nói
thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng
mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan
Tẩy Giả” (Mt11,11). Nơi dòng sông Giođan, chính ông Gioan
Tẩy Giả đã hân hoan, mạnh dạn, giới
thiệu một con người mang tên Giêsu, xuất thân
từ làng quê Nararét, sinh trưởng trong một gia đình
nghèo hèn là Đấng Kitô, là Chiên Thiên Chúa, Đấng
cứu độ trần gian, đây chính là Đấng mà
các Ngôn Sứ khi xưa đã tiên báo, là niềm đợi
trông và hy vọng của toàn dân Do Thái.
Như ta đã biết khi ông Gioan
Tẩy Giả bị cầm tù, niềm đợi trông, hy
vọng, những gì ông Gioan Tẩy Giả đã từng
giới thiệu như bị xáo trộn và chợt lu
mờ, ông không dám chắc lời giới thiệu của
mình đúng hay sai, qua việc ông sai đệ tử
đến gặp và hỏi Đức Kitô như Tin
Mừng đã trình thuật: “Ông Gio-an lúc ấy đang
ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm,
liền sai môn đệ đến hỏi Người
rằng: Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng
phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi
ai khác?” (Mt.11,2-30).
Để thắp sáng lên niềm
đợi trông và hy vọng nơi ông Gioan Tẩy Giả,
Đức Kitô đã không trả lời đúng hay sai Ngài
trả lời theo như những gì mà trước đây
Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: “Đức Giê-su trả
lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an
những điều mắt thấy tai nghe: Người mù
xem thấy, kẻ què được đi, người cùi
được sạch, kẻ điếc được
nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo
được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào
không vấp ngã vì tôi” (Mt11,4-6). Câu trả lời bao hàm
sự nhắc khéo ông Gioan hãy mạnh dạn và đừng
sợ, hãy làm chứng cho sự thật dù có phải hy sinh
tính mạng, niềm mong đợi và hy vọng của dân
Do Thái và của chính ông đã và đang thành sự nơi
Đức Kitô
Tuy không giáp mặt, chỉ bằng
lời nhắn gởi, Đức Kitô đã thắp sáng
niềm hy vọng nơi ông Gioan Tẩy Giả, để
rồi ông mạnh dạn bảo vệ sự thật,
bảo vệ luân lý và tiếp tục làm chứng cho
Đức Kitô. Điều này đã đưa ông
đến cái chết qua việc trả thù của
người phụ nữ lăng loàn Hê-rô-đi-a (Mt14,3-12).
Ta đang sống trong mùa vọng,
đặc biệt trong tuần lễ thứ 3, với
phẩm phục màu hồng của vị chủ tế,
Thiên Chúa qua Giáo hội mời gọi ta hãy sống trong tâm
tình vui lên và hy vọng Đức Kitô đã đến,
sẽ đến và đang đến, chính Ngài sẽ
đem lại cho ta Hạnh Phúc và Bình An, ban tặng cho ta hạnh
phúc Nước Trời, Ngài sẽ thắp sáng niềm Hy
Vọng cho ta, dẫu ta đang phải bị những cám
dỗ bủa vây và ngã quỵ; hay ta đang sống trong
cảnh màn trời chiếu đất; đang phải
chống trả với những khổ đau của
bệnh tật, nợ nần, đói nghèo, thất
nghiệp, bất hòa chia rẽ. Chính Ngài là chất xúc tác là
sức mạnh, là động lực cho ta đứng lên
và tiến bước.
Ngày xưa ông Gioan Tẩy Giả tuy
sống cảnh tù đày, không có cơ hội chứng
kiến, giáp mặt Đức Kitô, nhưng Lời của
Đức Kitô đã giúp ông lấy lại tất cả
sức mạnh, niềm hy vọng tưởng chừng
vụt tắt giữa quyền lực của thế gian.
Đây chính là bài học cho ta trong cuộc đời Kitô
hữu, đặc biệt trong bổn phận và trách
nhiệm làm chứng và giới thiệu Đức Kitô cho
mọi người, nhất là những người
chưa có khái niệm gì về Đức Kitô. Chính
Đức Kitô luôn ở bên ta, với ta nơi bí tích Thánh
Thể, Lời Ngài nói với ta qua Tin Mừng, Ngài hiện
diện quanh ta qua những người anh em.
Để nhận ra Đức Kitô và
lời của Ngài, Như ông Gioan xưa, trước tiên là
ta lui vào cõi lặng, lui vào hoang địa, sống
đời sống khiêm hạ, đơn sơ. Hình ảnh
của Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse là tấm gương
sống động nhất cho ta noi theo, trong việc
đón nhận và lắng nghe Lời của Đức Kitô
trong mọi biến cố vui buồn của cuộc
sống, kế đến là ta sống trong tâm tình mà Thánh
Giacôbê nhắn nhủ ta qua thư của ngài: “Thưa anh em,
xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem
nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất
trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả
mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng
vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm... Kìa Vị Thẩm Phán
đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức
chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi
gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh
Chúa. Kìa xem: chúng ta tuyên bố: phúc thay những kẻ đã
có lòng kiên trì! Anh em đã nghe nói đến lòng kiên trì
của ông Gióp và đã thấy mục đích Chúa nhắm,
vì Chúa là Đấng từ bi nhân hậu” (Gc.5,7-11).
Ước chi nhờ ơn Chúa giúp, ta có
được đức tin sắt đá, sự tỉnh
thức, lòng kiên nhẫn, niềm hy vọng. Đây chính là
những điều cần thiết giúp ta hân hoan đón
nhận tất cả những phúc lành của Thiên Chúa tuôn
đổ xuống trên ta, như viễn cảnh mà Ngôn
Sứ Isaia xưa đã giới thiệu: “Nơi hoang
địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu
sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ,
sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng” (Is.35,
1-2).
Lạy Chúa! Con đang
sống trong tuần lễ mà Giáo Hội là Mẹ mời
gọi con hãy vui lên, hãy hy vọng vì Chúa đã đến
gần. Xin Chúa giúp con biết dành thời gian tâm sự
với Chúa nơi bí tích Thánh Thể, chuyên tâm lắng nghe
Lời Chúa nơi Tin Mừng. Nhờ đó mà niềm vui và
niềm hy vọng của con luôn được Chúa
thắp sáng bằng tình yêu của Chúa ngay bây giờ và mãi
về sau. Amen.
|