Thầy có thật là đấng
phải đến không?
(Chú
giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long)
Đức Giêsu tôn trọng tự do
chọn lựa hay từ chối của chúng ta;
Người không áp đặt. Do đó, chúng ta không
được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ
đợi hoặc ước muốn của chúng ta, và
dựa trên đó mà chỉ trích hay từ khước
Người.
1- Ngữ cảnh
Với các chương 11–12 này, chúng ta
đến một khúc quanh trong Tin Mừng Mt. Trong
mười chương trước, Nước Trời
đến gần, dường như không hề gặp
trở ngại nào; ở đây, có điều mới
xuất hiện: các câu hỏi chính xác được
đặt ra cho Đức Giêsu.
Gioan Tẩy Giả phái các môn đệ
đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là
Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải
đợi ai khác?” (11,3). Phía họ, những người
Pharisêu cùng với các kinh sư (x. 12,38) đã ngỏ lời
lần đầu tiên trực tiếp với Đức
Giêsu với giọng trách móc và phê phán: “Ông coi, các môn
đệ ông làm điều không được phép làm ngày
sa-bát” (12,2). Đó là những câu hỏi quan trọng vừa
xuất hiện. Đứng trước bản thân và
hoạt động của Đức Giêsu, người ta
phải lấy lập trường. Dường như
Đức Giêsu có thể là “đối tượng gây
vấp phạm” (11,6), còn “thế hệ này” không sẵn sàng
đón tiếp Nước Trời đang đến
gần, các thành ở bờ hồ không hoán cải (x. 11,20),
phong thái của Đức Giêsu thực sự bị tranh
luận (x. cả ch.12), và người ta đã “bàn bạc
để tìm cách giết Đức Giêsu” (12,14).
Bầu khí ngờ vực và đặt
vấn đề này là bầu khí mới so với những
gì xảy ra trước đây. Quả thật, cho tới
nay, chúng ta đã thấy Đức Giêsu tỏ mình ra
dần dần như là Đấng Mêsia; các chặng chính
được Đức Giêsu trình bày với một
nội dung huấn giáo phong phú:
1. Như một đoạn văn
tổng quát báo trước, các ch. 1–2 đã giới
thiệu xuất xứ của Đức Giêsu, con cháu vua
Đavít và tổ phụ Abraham; ngay vào thời thơ
ấu, Người đã tỏ ra là Đấng Kitô, là
Đấng Mêsia, hoàn tất lịch sử thánh của
Israel nơi bản thân và bằng số phận của
Người.
2. Ở ch. 3–4, Vị Tiền Hô mà ngôn
sứ Isaia đã loan báo, đã ban phép rửa cho Đức
Giêsu: dịp này, Đức Giêsu đã đăng quang làm
Đấng Mêsia; sau khi đã được Chúa Cha ban
chứng từ thánh hiến, đã chịu quỉ thử
thách, Người đã đi loan báo Tin Mừng về
Nước Thiên Chúa.
3. Trong các ch. 5–7, qua huấn giáo của
Đức Giêsu, người ta đã nhận ra quyền
lực của Nước Thiên Chúa và đòi hỏi phải
dấn thân; Bài Giảng trên núi đã khiến cho các đám
đông phải kinh ngạc và thán phục.
4. Xuyên qua các phép lạ chữa bệnh
mà Đức Giêsu đã thực hiện cũng như
lời nói đầy hiệu năng của Người,
các ch. 8–9 giúp khám phá ra uy quyền được ban cho
Người cũng như quyền lực đầy
năng động của Nước Thiên Chúa.
5. Ở ch. 10, qua bài sai ban cho
Mười Hai Tông đồ và bài diễn từ truyền
giáo, ta khám phá ra rằng các sứ giả của
Nước Thiên Chúa được thực sự chia
sẻ uy quyền của Đức Giêsu, do các ông
được liên kết mật thiết với bản
thân Người.
Xuyên qua tất cả các chương
này, ta thấy danh tiếng của Đức Giêsu ngày càng
lan rộng, bay sang cả các miền chung quanh (x. 4,24;
9,26.31). Sự chống đối chưa lộ rõ bao nhiêu,
chỉ có một vài lời chỉ trích phát xuất từ
nhóm Pharisêu (x. 9,11) hoặc các môn đệ của ông Gioan
(x. 9,14), dưới dạng những câu hỏi lịch
sự, chỉ có một phản ứng quyết liệt
hơn lộ ra ở 9,34, nhưng cũng còn ngắn
ngủi, để rồi chỉ được nhắc
lại và triển khai ở 12,24. Nói đúng ra, trong tất
cả những chuyện này, chưa có tranh luận, và ngôn
ngữ ẩn dụ của các dụ ngôn chưa
được sử dụng, ngoại trừ câu
truyện về hai loại nhà kết luận Bài Giảng
trên núi (x. 7,24-27).
Tuy nhiên, nên ghi nhận phương
diện đe doạ và xung đột đã
được mười chương đầu này
của Tin Mừng nêu lên: ý định nham hiểm của
vua Hêrôđê (x. 2,16), cuộc chiến đấu chống
các cám dỗ (x. 4,1-11), lời loan báo những bách hại (x.
5,10-12.44; và nhất là 10,16-23.38). Nhưng đấy là
một sự đối kháng mà Đức Giêsu luôn chiến
thắng, hoặc là một lời Đức Giêsu kêu
gọi đừng sợ hãi, mà hãy nhận ra mối phúc
của Nước Thiên Chúa ngay giữa cuộc đối
đầu gian khổ. Dù sao, dường như ơn
cứu độ đã được đảm bảo
cho người nào đứng vững tới cùng (x. 10,22).
Do giọng điệu tha thiết của Đức Giêsu
nhằm giúp các môn đệ đối phó với những
khó khăn và trở ngại họ sẽ gặp, Bài diễn
từ truyền giáo đã mở ra một viễn
tượng mới: đó là cuộc thử thách
đức tin sẽ phải trải qua.
Đã đến lúc phải tự
hỏi về ý nghĩa của hoạt động của
Đức Giêsu, như Mt đã trình bày khá dài: phải
nghĩ gì về những “việc Đức Giêsu làm”
(11,2.19)? Phải hiểu thế nào về những “cử
chỉ quyền lực” ấy (11,20.21.23)? Thật ra đây
là câu hỏi về tư cách Mêsia của Đức Giêsu:
từ ngữ “Kitô” mà Mt đã sử dụng trong ch. 1–2,
đến đây mới xuất hiện lại (x. 11,2).
Dường như bây giờ chúng ta đã rơi vào tình
trạng lưỡng lự: ơn cứu độ
vẫn còn được trình bày như có thể
đạt được mà thôi, trong khi đó rõ ràng các
lần từ khước, các chống đối, các tranh
luận lại nối tiếp nhau đặt Đức
Giêsu thành vấn đề. Tác giả sẽ trình bày
phần Tin Mừng còn lại như câu truyện về
một sự từ khước. Chính là theo chiều
hướng này mà chúng ta có thể nói đến một khúc
quanh trong diễn tiến của Tin Mừng Mátthêu.
2- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba
phần:
1)
Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (11,2-3);
2)
Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân
Người (11,4-6);
3)
Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (11,7-11;
ở trong TM, thì đọc tới c. 15).
3- Vài điểm chú
giải
- Đấng phải đến (3): dịch sát ho
erchomenos là “Đấng đang đến”. Chúng ta nhớ
đến lời rao giảng trước đây của
Gioan: “Đấng đến sau tôi thì mạnh hơn tôi (ho
opisô mou erchomenos)” (3,11). Lời này đưa chúng ta trở
lại với sấm ngôn Isaia 40: “Kìa Đức Chúa
đến với sứ mạnh [quang lâm hùng dũng], tay
nắm trọn chủ quyền” (Is 40,10). Do đó,
Đấng Mêsia cũng được gọi là
“Đấng được chờ đợi”,
“Đấng sẽ đến”, “Đấng Thẩm phán”
(x. Dcr 9,9; Tv 118,26; St 49,10). Gioan đã so sánh sức mạnh
của Đấng Mêsia với việc người
tiều phu dùng rìu hạ cây (x. 3,10), rồi với
người nông dân sàng sảy sân lúa (3,12). Ông mời
gọi người tội lỗi hoán cải và ban một
phép rửa giúp bày tỏ lòng sám hối, trước khi
Đấng ấy đến, là Đấng ban phép rửa
trong Thánh Thần và trong lửa để tiêu diệt (3,11).
Đây chính là vị Thẩm phán đáng sợ sẽ dùng
lửa không hề tắt mà tiêu diệt tất cả
những kẻ tội lỗi không chịu hoán cải (x. Ml
3,2-3).
- phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi (6): “Cớ vấp
phạm”, skandalon, là “cái bẫy đặt trên
đường; chướng ngại vật làm cho
người ta té ngã”; và nghĩa bóng là tất cả
những gì làm cho người ta rơi xuống về
mặt luân lý hay tôn giáo. Đức Giêsu tiên liệu rằng
câu trả lời của Người có thể làm cho Gioan
thất vọng, bởi vì quan niệm của ông về
Đấng Mêsia quá khác với cách Đức Giêsu đang
thực hiện hình ảnh Đấng Mêsia của Thiên
Chúa. Chúng ta có thể nghĩ đến phản ứng
của Phêrô khi nghe loan báo Thương Khó (Mt 16,22-23) hoặc
Giôna sau khi thấy Thiên Chúa tha thứ cho thành Ninivê (Gn 4).
4- Ý nghĩa của
bản văn
Gioan Tẩy Giả đã loan báo là
đến sau ông, sẽ có một người mạnh
hơn ông và vượt xa ông về phẩm cách.
Người ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và
sẽ tách lúa với vỏ trấu ra (3,11t; x. Is 40,10).
Bây giờ Vị Tẩy Giả đang
ở trong tù. Do bởi thái độ cứng rắn và
những lời nói đanh thép của ông, vua Hêrôđê Antipa
đã phải ra lệnh bắt giam ông. Nhưng vì ông
nổi tiếng là đạo đức, ông
được đối xử đặc biệt; các
bạn bè có thể đến thăm ông, cho ông biết
những tin tức ở bên ngoài. Ông đặc biệt quan
tâm đến Đức Giêsu Nadarét.
* Mở đầu cuộc tranh luận Kitô
học (2-3)
Gioan nghe nói đến những hành
động của Đức Giêsu. Phải nghĩ về
Đức Giêsu như thế nào? Người có thật là
Đấng mà ông đã loan báo là đang đến chăng?
Quyền bính và năng lực của Người đang
đang được biểu lộ ra ở đâu?
Chẳng lẽ trong thân phận tù tội, ông không đáng
được Đức Giêsu dùng quyền lực
Người mà giải thoát sao? Người có thật
đang tách hạt lúa khỏi vỏ trấu chăng? Ở
đâu? Đức Giêsu là ai? Hẳn là Người phải
nói năng và hành động cách mạnh mẽ và rõ ràng
hơn chứ?
Khởi đi từ hoàn cảnh cá nhân
ông và sự hiểu biết của ông về các hoạt
động của Đức Giêsu, Gioan nêu ra câu hỏi
quyết liệt: Phải chăng đã đến lúc hoàn
tất mọi sự? Chúng tôi có thể tín nhiệm vào
Người chăng? Người là ai? Các môn đệ
của Vị Tiền Hô đã đến gặp
Đức Giêsu và nêu câu hỏi đúng như thầy
họ đã dặn.
* Câu trả lời của Đức Giêsu
về bản thân Người (4-6)
Đức Giêsu không cung cấp một
câu trả lời rõ ràng và trực tiếp. Qua các môn
đệ Gioan, Đức Giêsu đưa Vị Tiền Hô
trở lại điểm xuất phát của câu hỏi
của ông. Gioan phải diễn dịch ra được
câu trả lời từ các việc Đức Giêsu làm, là
chính những việc đã thúc đẩy Gioan đặt
câu hỏi (11,2). Các môn đệ ông lại phải về
làm chứng cho thầy về những việc Đức
Giêsu đã làm (“Các anh cứ về thuật lại cho Gioan
những điều mắt thấy tai nghe”) và Đức
Giêsu mô tả các việc ấy ra bằng cách nhắc
đến các lời hứa Cựu Ước (Is 35,5t; x.
Is 35,4; 29,18-19; 61,1).
Đức Giêsu khẳng định
rằng lời hứa ấy đang được hoàn
tất nơi các hành vi của Người; qua các hành vi này,
quả thực Thiên Chúa đang can thiệp để ban
ơn cứu độ. Qua các hành động của
Đức Giêsu, Nước Trời hay là quyền chúa
tể của Thiên Chúa với quyền lực và ân sủng,
đang thật sự trở nên gần gũi (4,17).
Quyền chúa tể này trước tiên không được
tỏ ra như là khả năng thắng vượt các
quyền lực đối lập của loài người:
Gioan sẽ bị chém đầu trong ngục (14,10);
Đức Giêsu sẽ chết trên thập giá; các môn
đệ Người sẽ bị bách hại (10,16-25).
Triều đại Thiên Chúa cũng chưa tỏ hiện
rõ ràng như việc tức khắc tách biệt lúa và
vỏ trấu. Việc phán xét chung kết được
dành cho ngày Con Người đến: khi đó kẻ
dữ sẽ bị tách ra khỏi những người công
chính (13,36-43.47-50). Nước Trời sẽ
được biểu lộ nơi sự kiện
những người sống trong cảnh cùng quẫn
sẽ được Thiên Chúa trợ giúp (8,2–9,35) và nơi
sự kiện Tin Mừng được loan báo với
tất cả uy quyền (5,1–7,29). Đức Giêsu bắt
đầu công việc rao giảng bằng cách loan báo mối
phúc cho người nghèo (5,3); ở tại trung tâm của
lời rao giảng này, có sứ điệp về vị
Thiên Chúa quyền năng và nhân ái, sứ điệp về
Cha Người và Cha của tất cả mọi
người, Đấng muốn cho tất cả mọi
người được hiệp thông mãi mãi trong vinh phúc
với Ngài. Đức Giêsu tự giới thiệu mình
như là Đấng cứu chuộc những người
cùng khổ và như sứ giả làm chứng về
niềm vinh phúc ấy. Trước tiên Người không
đến như một người đấu tranh
chống lại bạo lực và như thẩm phán nghiêm
khắc.
Mỗi người phải tự
nhận định và lấy lập trường
đối với Người (x. 11,20-24). Đức Giêsu
cũng giúp chúng ta ý thức về điểm này: “Phúc thay
người nào không vấp ngã vì tôi” (11,6). Người không
áp đặt cách hành động của Người
nhờ sức thuyết phục của những sự
kiện hoàn toàn hiển nhiên; Người dành không gian cho
người ta đón nhận hoặc từ khước,
cho người ta tin hoặc không tin.
* Bài tán dương của Đức Giêsu
về Gioan (7-11)
Sau khi đã trả lời câu hỏi
về thân thế Người, bây giờ Đức Giêsu
đề cập đến công việc và bản thân
của Vị Tẩy Giả (11,7-15). Người ca
ngợi lối xử sự cương nghị và lối
sống không ngạo mạn tự phụ của
đấng không hề cúi gập người lại
trước những bậc quyền quý như một cây
sạy cong người trước gió (x. 14,3-12) và không
ăn mặc lụa là mềm mỏng. Chính sự trung tín
và sự dơn giản của ông làm cho ông trở nên đúng
là một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa (x. 21,26.32) và đáng
tin. Nhưng ông còn hơn là một ngôn sứ. Tất cả
những vị đến trước ông đều
thuộc về thời đại lời hứa, các
vị ấy chỉ loan báo từ xa biến cố
Đấng Mêsia đến trong quyền lực và mang theo
ân sủng (11,13). Gioan là vị ngôn sứ của thời
kỳ hoàn tất, nên cao trọng hơn tất cả các
vị đi trước. Ông là sứ giả đi ngay
trước Đức Chúa và chuẩn bị trực
tiếp cho Người đến (11,10). Ông là Êlia đi
trước Đức Chúa và chuẩn bị cho dân chúng
đón tiếp Người (11,14; x. Ml 3,23; H c 48,10).
Với cách đánh giá Vị Tẩy
Giả như thế, Đức Giêsu một lần
nữa trả lời gián tiếp cho câu hỏi của ông.
Nếu Gioan ở rất sát thời kỳ hoàn tất, thì
với Đức Giêsu, thời này đã đến.
Nếu Gioan là vị sứ giả dọn đường,
thì với Đức Giêsu, người ta đã đón
được Đức Chúa đến: không chính xác theo
kiểu ông hình dung và chờ đợi (x. 3,12), mà là theo cách
Thiên Chúa đã định. Sánh với những người
đã đến trước, ông là người cao
trọng nhất. Sánh với những người đang
thuộc về Đức Giêsu và có thể trải
nghiệm sự gần kề của Nước Trời
trong sự hiệp thông với Người, ông là
người nhỏ. Sự vĩ đại và nhỏ bé
ấy không liên hệ đến ơn cứu độ
hoặc giá trị luân lý của con người, nhưng
liên hệ đến thời gian và biến cố trong
đó người ấy được tham dự vào. Chính
vì thế Đức Giêsu bảo rằng các môn đệ có
phúc so với nhiều ngôn sứ và người công chính
(13,16t). Như thế, thời đại và công trình của
Đức Giêsu có một ý nghĩa duy nhất.
+ Kết luận
Qua các môn đệ của Vị
Tẩy Giả, Đức Giêsu cũng trả lời cho
chúng ta: Người chính là Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã
hứa ban cho dân Chúa từ ngàn xưa. Thiên Chúa vẫn trung
thành với lời Ngài hứa; chỉ có con người qua
dòng thời gian, đã giải thích sai lạc lời Thiên
Chúa hứa để đưa nhau đến những
niềm chờ mong hão huyền, theo lòng dạ hẹp hòi của
mình. Hôm nay, Đức Giêsu mời chúng ta điều
chỉnh lại cách chúng ta nhìn lịch sử cứu
độ: không theo khuôn khổ các giấc mơ của
chúng ta, nhưng đúng theo chương trình của Thiên
Chúa. Và nếu qua Lời Chúa hôm nay, người môn
đệ nhận ra rằng mình cũng được mời
gọi làm Tiền Hô của Đức Kitô đối
với con người hôm nay, thì chúng ta cũng cần
nhớ rằng, chúng ta chỉ có thể chu toàn
được sứ mạng nếu dựa vào phẩm
cách cao quý của Đức Giêsu, Đấng chúng ta loan báo.
5- Gợi ý suy
niệm
1. Hôm nay, nhiều Kitô hữu vẫn
đang mơ một ơn cứu độ không phù hợp
với cách Thiên Chúa quan niệm. Việc Đức Giêsu
chữa bệnh và nhất là việc loan báo Tin Mừng cho
người nghèo cho thấy rằng Người không
phải là một thẩm phán nghiêm khắc nhưng là
một vị Mêsia ân cần và từ bi. Thay vì trừng
phạt những kẻ tội lỗi, loại trừ
những kẻ gian ác, Người lại ban ơn chữa
lành cả tâm hồn và thân xác, Người an ủi,
Người soi chiếu, Người trợ giúp những
ai đang đau khổ, Người đi qua giữa loài
người để chỉ làm điều thiện (ch.
8–9), tha thứ tội lỗi (9,2). Hẳn là có những
người khó chịu? Ngay chúng ta đây, chúng ta có chấp
nhận được việc Thiên Chúa mạc khải tình
yêu của Ngài ra trong sự khiêm nhường và yếu
đuối chăng? Do đó Đức Giêsu đã nói: “Phúc
thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Đây cũng chính
là “cớ vấp phạm” do các Mối Phúc gây ra.
2. Con đường tất cả các
môn đệ phải theo là nhìn thấy các dấu chỉ mà
biết giải thích đúng đắn, biết nhận ra
đó là các công trình của Thiên Chúa. Đây là nẻo
đường đức tin, khởi đi từ
những điều thấy được và đưa tới
chỗ khám phá ra Đức Giêsu là ai. Đây là con
đường đưa từ bóng tối đến ánh
sáng, đi từ những dấu chỉ đến với
thực tại được ám chỉ. Nhìn Hài Nhi bé
bỏng yếu ớt nằm trong máng cỏ, mà nhận ra
đó là Cứu Chúa và Đức Chúa; nhìn Con người
bị đóng đinh đau đớn và nhục nhã
nhất mà nhận ra đó là Đức Vua Cứu thế,
đấy là qua dấu chỉ mà khám ra được
thực tại.
3. Đức Giêsu tôn trọng tự do
chọn lựa hay từ chối của chúng ta;
Người không áp đặt. Do đó, chúng ta không
được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ
đợi hoặc ước muốn của chúng ta, và
dựa trên đó mà chỉ trích hay từ khước
Người. Trái lại, chúng ta phải thấy thực
sự Người là ai và Người đang làm gì,
để rồi đón tiếp Người với
niềm vui và tri ân, cho dù chúng ta phải sửa chữa và
bỏ đi một vài ý tưởng hoặc sự chờ
đợi sai lạc nào đó.
4. Là những con người sống
ở thời đại “cuối cùng”, chúng ta “có phúc”
hơn là chính Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, chúng ta có biết
trân trọng những ân huệ đang nhận và dùng
những ân huệ đó mà xây dựng cuộc sống
hạnh phúc cho người khác chăng?
|