Google Search
Local Search
|
|
Bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Thái Bình
|
Bổ nhiệm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Saigon
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Xin mời nghe proshow "Lời Gọi Fatima" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
Xin chia sẻ cùng quí cha, thày và anh chị proshow "Danh Thánh Đức Maria" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
|
Sống Phụng Vụ Mùa Vọng Và Giáng Sinh Hôm Nay.
|
|
Thứ Hai, Ngày 5 tháng 12-2016
|
SỐNG PHỤNG VỤ MÙA VỌNG VÀ GIÁNG SINH HÔM NAY.
Giáo Hội Công giáo đã lại bắt đầu một năm phụng vụ mới. Hằng năm, các
tín hữu đều được nhắc nhở rằng Phụng vụ là một trong những hoạt động
quan trọng nhất của Giáo Hội, do cộng đoàn các thành viên của Giáo Hội
cử hành, để tưởng nhớ tới Đức Kitô và công cuộc Cứu độ Người đã thực
hiện, nhờ đó hiện tại hoá giá trị cứu độ của các cử chỉ của Người vì sự
thánh hoá của các tín hữu.
Giáo Hội Công giáo đã lại bắt đầu một năm phụng vụ mới.
Hằng năm, các tín hữu đều được nhắc nhở rằng Phụng vụ là một trong
những hoạt động quan trọng nhất của Giáo Hội, do cộng đoàn các thành
viên của Giáo Hội cử hành, để tưởng nhớ tới Đức Kitô và công cuộc Cứu độ
Người đã thực hiện, nhờ đó hiện tại hoá giá trị cứu độ của các cử chỉ
của Người vì sự thánh hoá của các tín hữu. NĂM PHỤNG VỤ
Công cuộc cứu độ của Thiên Chúa trải dài trong thời gian từ tạo thiên
lập địa cho tới ngày cùng thế tận và trong phụng vụ của Giáo Hội, được
tưởng nhớ và cử hành trong chu kỳ hàng năm với những mùa, những ngày lễ
đưa người tín hữu và cộng đoàn từng bước đi vào sự hiệp thông với hành
động cứu độ này của Thiên Chúa, được thể hiện qua cuộc đời của Chúa
Giêsu Kitô: việc Người sinh ra (Giáng Sinh, cái chết và sự Phục sinh của
Người và việc Người ban Thánh Thần (Hiện Xuống), việc Người sẽ đến như
Người đã hứa. Năm phụng vụ, khởi đầu với mùa Vọng gồm bốn Chúa nhật, khởi đầu với chúa nhật cuối tháng mười một tới ngày 25/12, lễ Giáng sinh, và mùa Giáng sinh kéo
dài từ lễ Giáng sinh tới hết ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa, chấm dứt
thời kỳ Chúa Giêsu sống đời sống ẩn dật tại Nazareth, mở đầu sứ vụ công
khai của Người. Sau đó là mùa Thường niên, giai đoạn một, từ sau lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa tới thứ Tư lễ Tro mở đầu mùa Chay chuẩn
bị đại lễ Phục sinh, với tuần thánh, với ba ngày thánh tưởng nhớ một
thực tại vô cùng đặc biệt: Đức Kitô vượt qua cái chết đến sự sống nhờ đó
đem lại sự sống mới cho những ai tin vào Người. Mùa Phục sinh kéo dài từ lễ Phục sinh đến lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Sau lễ Hiện xuống là mùa Thường niên,
giai đoạn hai, kéo dài tới lễ Chúa Kitô Vua kết thúc năm phụng vụ. Năm
phụng vụ kết thúc với viễn tượng về ngày Chúa quang lâm. Phụng vụ
cũng không quên gợi lại hình ảnh những con người đã làm rạng rỡ sự Thánh
thiện của Thiên Chúa trong cuộc đời được cứu độ của các ngài với các
ngày lễ kính các thánh được mừng vào những ngày nhất định trong năm.
Phụng vụ với những giờ kinh được đọc vào những khoảnh khắc khác nhau –
sáng, trưa, chiều, tối – cũng đã muốn ghi dấu ấn của lịch sử cứu độ trên
bước đi hàng ngày của thời gian. Lịch phụng vụ đã được triển khai
dần dần trong lịch sử. Việc tu chỉnh lần cuối cùng diễn ra vào năm 1969
tiếp nối công cuộc cải cách phụng vụ bắt đầu tại Công đồng Vatican II.
Các mùa và ngày lễ trong năm phụng vụ được cử hành với các mầu sắc khác
nhau của lễ phục và trang trí gợi lại những tâm tình và bầu khí do ý
nghĩa của việc cử hành gợi lên: mầu tím của mùa Vọng và mùa Chay; màu
vàng của ngày Giáng sinh và Phục sinh, mầu trắng của những ngày lễ quan
trọng khác trong năm, mầu xanh của mùa thường niên, mầu đỏ, mầu của tình
yêu và tận hiến, của Đức Kitô và các thánh tử đạo, được sử dụng vào lễ
các thánh tử đạo, chúa nhật lễ Lá, thứ Sáu thánh, lễ Trái Tim và lễ Chúa
Thánh Thần hiện xuống. Một lần duy nhất trong năm chủ tế mang phẩm phục
mầu hồng, đó là vào chúa nhật thứ ba mùa Vọng, chúa nhật ”Laetare”,
một thoáng niềm vui giữa màu Tím chờ đợi. Trước đây, còn sử dụng mầu
đen, mầu của tang tóc, nhưng nay, mầu đen được thay thế bằng mầu tím, kể
cả trong lễ tang. Niềm hy vọng sống lại vẫn chiếu sáng trong cả cái
chết. Như vậy, năm phụng vụ muốn mời gọi các tín hữu và cộng đoàn
Giáo Hội sống cuộc sống của mình trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa qua
việc tưởng nhớ và cử hành tất cả các mầu nhiệm về Đức Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa làm người, đã sống, đã chết và đã phục sinh và sẽ quang lâm
hoàn tất công trình cứu độ của Người, khi Người là tất cả trong mọi sự. NGÀY CHÚA NHẬT TRONG NĂM PHỤNG VỤ
Ngày Chúa nhật là trung tâm của đời sống Kitô hữu. Các nghị phụ Công
đồng chung Vatican II khẳng định điều này, đặc biệt trong Hiến chế Phụng
vụ thánh: “Theo Truyền thống Tông đồ, bắt nguồn từ chính ngày Chúa Kitô
sống lại. Giáo Hội cử hành mầu nhiệm Vượt qua vào mỗi ngày thứ tám,
ngày thật đáng gọi là Ngày của Chúa, hay Chúa Nhật. Trong ngày đó, các
Kitô hữu phải họp nhau lại để cùng với việc lắng nghe Lời Chúa và tham
dự Hiến Lễ Tạ ơn, họ kính nhờ cuộc Thương khó, sự Sống lại và cuộc tôn
vinh của Chúa Giêsu, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa, Đấng “đã tái sinh họ
trong niềm hy vọng sống động nhờ sự phục sinh từ trong cõi chết của Chúa
Giêsu Kitô (1 Pr 1, 3). Vì thế, Chúa Nhật là ngày lễ rất đặc biệt phải
được đề cao và in sâu vào long đạo đức của các tín hữu đến độ cũng trở
thành ngày dành cho niềm vui và sự nghỉ ngơi. Các nghi thức cử hành
khác, nếu không thật sự rất quan trọng, thì không được đặt ưu tiên hơn
lễ Chúa Nhật, vì đây là nền tảng và cốt lõi của cả năm phụng vụ” (PV, số
106). Năm 1998, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II phổ biến tông thư Dies Domini / Ngày của Chúa về việc hiến thánh Ngày của Chúa. Tông thư khẳng định ngày Chúa nhật không chỉ là Ngày của Chúa, mà còn là Ngày của Đức Kitô / Dies Christi,
ngày của công cuộc tạo dựng mới và của ân sủng của Đức Thánh Linh; Ngày
của Giáo Hội, ngày cộng đoàn Kitô hữu họp lại với nhau; Ngày của con
người, Dies Hominis, ngày của dân chúng, ngày mừng vui, nghỉ ngơi và của tình yêu thương.
Người Kitô hữu hiện nay cảm thấy khó khăn trong việc giữ ngày Chúa
nhật. Có quá nhiều nhu cầu. Và càng ngày người ta càng bị lôi kéo làm
việc ngày Chúa nhật. Không phải vì phải làm việc cả bảy ngày trong một
tuần lễ mà còn bởi việc phân công tại sở làm việc, một tuần có thể chỉ
phải làm việc năm ngày, nhưng ngày làm việc có thể rơi vào ngày Chúa
nhật. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Dù ở trong thời kỳ khó khăn
như hiện nay của chúng ta, người Kitô hữu vẫn phải luôn duy trì và trên
mọi sự, phải sống tính chất ngày chúa nhật trong tất cả chiều sâu của ý
nghĩa của nó...Chúa nhật của người Kitô hữu ...vẫn là một yếu tố thiết
yếu của căn tính Kitô giáo của chúng ta. PHỤNG VỤ VÀ THÁNH KINH
Cuộc cải cách phụng vụ của Công đồng chung Vatican II đã tạo cơ hội để
tín hữu và cộng đoàn được tiếp xúc một cách rộng rãi hơn với Mạc khải
của Chúa qua Thánh Kinh, đặc biệt là các sách Tin Mừng. Ý NGHĨA MÙA VỌNG
Năm phụng vụ bắt đầu với Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng, tức Chúa nhật
cuối cùng của tháng mười một, và kết thúc với lễ Giáng Sinh, 25/12. Sách lễ Roma gọi mùa này là mùa Adventus.
Từ latinh này có nghĩa là ‘đến’. Việc Chúa đến: Đến trong lịch sử, đến
trong lòng tin và đến trong vinh quang ngày hoàn tất mọi sự. Công giáo Việt Nam gọi đây là mùa Vọng.
‘Vọng’ có nghĩa là nhìn, hướng về nơi tâm trí đang tưởng nhớ, trông
chờ. ‘Vọng’ nhấn mạnh vào thái độ, tâm tình của người Kitô hữu, của Giáo
Hội trước việc Chúa đến. Chúa đến Chúa đã đến vào một ngày giờ và tại một nơi nhất định trong lịch sử: Đức Giêsu, con Đức Maria, người Nazareth, sinh tại Bêlem vào “năm mười lăm
hoàng đế Tibêrô chấp chính; Pontiô Philatô trấn nhiệm xứ Giuđê; Hêrôđê
làm quận vương xứ Galilê và em là Philip làm quận vương vùng Iturê và
Trakhônit, và Lysania làm quận vương xứ Abilênê; dưới thời thượng tế
Hanna và Caipha” (Luca 3, 1 và tt). Người là người thật như mọi con
người khác, trừ tội lỗi, như thánh Phaolô khẳng định. Là người thật,
nhưng Đức Giêsu, trong lòng tin Kitô giáo, cũng là Thiên Chúa thật.
Người là “Lời ở nơi Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa. Mọi sự đã nhờ
Người mà thành sự. Người đến trong thế gian. Người có trong thế gian.
Bởi Lời đã thành xác phàm và đã lưu trú nơi chúng ta. ...” (xem Ga 1,
1–15). . Mùa Vọng hướng về mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, Đấng
cứu độ muôn dân. Chúa đang đến trong lòng tin Kitô hữu: Đức
Giêsu đã lớn lên, rao giảng Tin Mừng cứu độ, đã bị bắt, bị giết chết
trên thập giá, được táng trong mồ... Là Thiên Chúa thật, Người hiện diện
đặc biệt trong mỗi cử hành phụng vụ, đến với những ai tin vào Người,
gặp gỡ và đồng hành với họ trong cuộc sống, để cùng với họ mở đầu, xây
dựng và hoàn tất một lịch sử mới đã khởi đầu với việc Người giáng sinh
làm người tại Bêlem. Công đồng chung Vatican II khẳng định: “Đức Kitô
luôn hiện diện trong Hội thánh của Người, đặc biệt trong việc cử hành
phụng vụ. Người hiện diện trong lễ tế hiến, nơi con người thừa tác viên,
‘tự hiến mình lúc này, qua thừa tác vụ của các linh mục như Người đã tự
hiến mình khi xưa trên thập giá’, và đặc biệt trong bánh và rượu trở
thành mình và máu Người” (Hiến chế Phụng vụ thánh). Chúa
Giêsu Kitô hiện diện giữa Giáo Hội của Người để cùng với Giáo Hội và
từng môn đệ của Người hoàn tất sứ vụ Người giao: “Hãy đi thâu nạp môn đồ
khắp muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ
giữ hết mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và này, Thầy sẽ ở với các
con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19–20). Con người chờ đợi
Bốn tuần lễ mùa Vọng tượng trưng cho bốn mươi năm dòng dõi của Abraham,
Isaac, Giacob được tôi luyện trong sa mạc trống không và nóng bỏng để
chỉ còn lại lòng khát khao chân thật đến được nơi Chúa đã hứa ban.
Sự khát khao và chờ đợi của những ai tin vào Chúa từng bước được lấp
đầy, một cách phong phú, ngoài sức con người có thể tưởng tượng. Không
chỉ là một giang sơn chảy đầy sữa và mật ong, mà là một vị Cứu độ, là
người thật và là Thiên Chúa thật, Đấng ban phát nước hằng sống, Đấng ban
bánh của sự sống đời đời, của sự sống mới, sự sống của những người được
quyền gọi Thiên Chúa là Cha. Mùa Vọng là mùa người Kitô hữu và cộng
đoàn Giáo Hội ngày hôm nay khơi dậy lòng mong muốn gặp gỡ và kết hiệp
chặt chẽ hơn nữa với Đấng đã đến và đã đem lại cho mình sự sống mới.
Không phải chờ đợi trong thụ động với những câu kinh, nghi lễ có sẵn,
bằng lòng với những tri thức đã thu thập được về một quá khứ xa xôi
trong không gian và thời gian, mà là sự chờ đợi của ngày hôm nay và lúc
này, một sự chờ đợi cũng nóng bỏng với câu hỏi “chúng tôi phải làm gì?”
để có thể gặp Người và kết hiệp với Người, trong cái ngày hôm nay của
cuộc sống cụ thể của từng người, từng giới, từng cộng đoàn, như người
đương thời của Gioan Tẩy giả đã đua nhau nêu lên khi nghe ngài loan báo
Đấng sẽ đến (xem Lc 3, 10-14). Sự chờ đợi trong tỉnh thức
của những người trinh nữ khôn ngoan trong dụ ngôn của Chúa, trong sự
nhạy bén để nhận ra tiếng gọi, ý muốn, sự chờ đợi của Chúa được biểu lộ
trong Thánh Kinh, trong giáo huấn của Hội Thánh và thực thi trong thực
tại cuộc sống, để qua đó, được kết hiệp làm một với Đấng vốn là đường
dẫn đến sự thật và sự sống. Như vậy, sự chờ đợi của mùa Vọng dẫn đến
việc chuẩn bị trí óc với việc tìm hiểu mạc khải về Đấng đã đến, đang
đến và sẽ đến lại, trong bối cảnh của cuộc sống riêng mỗi người, của thế
giới ngày nay, của xã hội Việt Nam với những niềm vui, nỗi buồn, những
vấn đề xã hội và về xã hội đang chờ đợi một lời đáp, một thái độ của
niềm tin chân thật nơi Đức Kitô. Như ba nhà đạo sĩ tìm hiểu ý nghĩa của
dấu sao lạ và nhận ra nơi Hài nhi yếu ớt được vấn tã đặt trong máng cỏ
nghèo nàn là Đấng các ông đang tìm gặp để thờ lạy. Việc chuẩn bị con tim
với những khát vọng đích thực vốn đang bị vùi lấp dưới những đống phù
vân của chủ nghĩa tiêu thụ, những giá trị giả tạo đang được không ít các
tiên tri giả rêu rao. Không có những khát vọng mới làm bật lên câu hỏi
trong nỗi bức xúc: ‘chúng tôi phải làm gì’ của từng người, từng cộng
đoàn và của cả Hội Thánh, mùa Vọng sẽ chỉ còn là sự chờ đợi của quá khứ
và của kẻ khác, không phải của hôm nay và của chính mình. Trong
phụng vụ mùa Vọng, chúng ta được cảm nghiệm về Lời không thay đổi nhưng
sống động của Thiên Chúa, đã hoàn tất và đang được chờ đợi hoàn tất.
“Lời của Chúa được công bố trong việc cử hành các mầu nhiệm của Thiên
Chúa không chỉ gợi đến những hoàn cảnh hiện tại mà hướng cả về các biến
cố đã qua và hướng tới những gì đang đến”. Việc chuẩn bị tích cực,
để tiếp đón vị Thượng Khách từng được yêu mến và tin tưởng, từng được
trông chờ như Đấng sẽ lấp đầy những khát khao làm người và làm con Thiên
Chúa, sẽ biến mùa Vọng thành mùa của mừng vui và hy vọng, mà không phải
của lo âu và sợ hãi, dù là chờ đợi Đấng sẽ đến phán xét vào ngày cùng
thế tận, dù phụng vụ vắng tiếng hát kinh ‘vinh danh’ và mang màu tím,
màu của khắc khổ và sám hối. MỘT SỐ VIỆC ĐẠO ĐỨC Tĩnh tâm mùa Vọng
Các giáo xứ và hội đoàn ở Việt Nam có thói quen tổ chức tĩnh tâm mùa
Vọng cho các tín hữu. Có nơi dành trọn một hay hai ngày cho việc tĩnh
tâm. Cũng có nơi tổ chức tĩnh tâm vào mấy buổi chiều và tối để có được
bầu khí và khung cảnh thuận lợi cũng như thích hợp cho việc chiêm niệm.
Việc đạo đức này nên được tổ chức vào các ngày đầu mùa Vọng để có thể
giúp các tín hữu và cộng đoàn giáo xứ bước ngay vào bầu khí của mùa
phụng vụ và thấu hiểu hơn ý nghĩa của mùa Vọng nhờ đó tham gia một cách
trọn vẹn hơn ngay từ buổi đầu vào mầu nhiệm cứu độ được Hội Thánh tưởng
nhớ và cử hành trong bốn tuần của mùa Vọng. Có lẽ nên hiểu Tĩnh tâm
như một việc đạo đức gắn với việc cử hành mùa phụng vụ: không phải chỉ
là việc dọn mình xưng tội để được rước lễ ngày lễ Giáng sinh, cũng không
phải là một lớp giáo lý giúp người tham dự có thêm kiến thức về mầu
nhiệm Hội Thánh đang chuẩn bị cử hành, mà chính là thời gian để đi vào
mầu nhiệm trong cầu nguyện, chiêm niệm, kết hiệp và sống mầu nhiệm cứu
độ đã diễn ra và cũng đang diễn ra giữa loài người. Do đó, tĩnh tâm
không thể không bao gồm việc đọc Thánh Kinh để gợi lại những gì Thiên
Chúa đã làm, những khoảnh khắc thinh lặng để người tín hữu cầu nguyện và
chiêm niệm mầu nhiệm đã hoàn tất, những việc đạo đức để đi vào mầu
nhiệm đang diễn ra ngày hôm nay và ý thức về những việc phải làm để
hướng về ngày hoàn tất mọi sự. Tĩnh tâm mùa Vọng có thể là một dịp
giúp người tín hữu và cộng đoàn kiểm điểm đời sống, nhận ra đâu là những
giá trị mình đang theo đuổi trong cuộc sống thường ngày, trong gia
đình, trong xã hội và nơi bản thân. Người tín hữu và cộng đoàn cũng cần
được giúp đỡ để khám phá ra những giá trị đích thực, bền vững mà Tin
Mừng, giáo huấn cũng như phụng vụ của Hội Thánh, đặc biệt là mầu nhiệm
Giáng sinh, mời gọi và trông chờ người tín hữu và cộng đoàn thực hiện,
nhất là trong một xã hội lễ Giáng sinh ngày càng bị thế tục hoá. Bởi
vậy, trong cuộc tĩnh tâm, cũng nên tổ chức một cuộc sám hối tập thể,
tuy không thay thế việc xưng tội riêng, nhưng cũng sẽ giúp ích không ít
cho việc trở lại của mỗi cá nhân và của cộng đoàn. Làm máng cỏ
Việc các gia đình, khu đạo và giáo xứ làm hang đá, hay máng cỏ tại gia,
tại nhà thờ, thậm chí ở nơi công cộng cũng có thể được xem như một việc
đạo đức giúp nâng cao lòng đạo nhân một dịp lễ đặc biệt của năm phụng
vụ, miễn là việc làm này không bị biến thành cơ hội để phô trương, lãng
phí tiền bạc, của cải và thời gian, qua đó, trở thành dịp để người tín
hữu và cộng đoàn ‘chia trí’, sao nhãng bài học đích thực của mầu nhiệm
Con Thiên Chúa đã chọn khung cảnh nghèo, giản dị của người dân bình
thường để ra đời làm người. Làm máng cỏ trong gia đình không
đơn thuần là việc trang trí nhà cửa, việc bầy ra một máng cỏ, một hang
đá có sẵn hay được mua tại tiệm sách đạo, nhưng có thể là dịp để gia
đình thông hiệp với mầu nhiệm Giáng sinh ngày hôm nay và cùng với các
thành viên của gia đình. Việc làm máng cỏ này cũng có thể là một dịp để
cha mẹ giáo dục con cái một cách cụ thể về bài học của Giáng sinh, một
cơ hội để giảng dạy, qua bộ tượng các nhân vật của máng cỏ, về vai trò
của Đức Maria, của thánh Giuse, các mục đồng, của ba nhà đạo sĩ... Chẳng
hạn, mỗi tuần của mùa Vọng có một buổi tối cả gia đình cùng tụm lại để
làm máng cỏ, và người lớn tuổi sẵn sàng giải thích cặn kẽ từng câu hỏi
của các bé nêu lên khi cầm tượng các nhân vật của hang đá. Các trẻ trong
gia đình cũng có thể mời bạn bè, hang xóm tới cùng làm hang đá. Việc
làm hang đá hay máng cỏ này có thể kéo dài suốt mùa Vọng, tượng các nhân
vật lần lượt được đặt ra theo hành trình của Đức Maria và thánh Giuse
trên đường tới Bêlem và tới hang đá như được mô tả trong hai sách Tin
Mừng Matthêu và Luca, đoạn 1 và 2. Mỗi chặng đường của cuộc hành trình
có thể là một dịp để gia đình đọc một đoạn sách Thánh và cầu nguyện với
Thánh gia. CỬ HÀNH BÍ TÍCH TRONG MÙA VỌNG Bí tích Thánh Tẩy
Mùa Vọng chuẩn bị lễ Giáng sinh là thời gian thích hợp để gợi lại bí
tích Thánh Tẩy người tín hữu đã lãnh nhận, để giáo huấn và cử hành bí
tích Thánh Tẩy cho người trưởng thành cũng như trẻ mới sinh, vì mùa
chuẩn bị lễ Giáng sinh đầy ắp những biểu tượng: Như Đức Maria chờ đợi
mọi sự diễn ra theo Lời Chúa (Lc1, 38), người chầu nhưng cũng chờ đợi bí
tích Thánh Tẩy để được sinh ra với sự sống mới. Mùa Vọng cũng là mùa
chuẩn bị cho ánh sáng chiếu rạng trong đêm Giáng sinh: “Đêm hầu tàn,
ngày sắp đến. Vậy ta hãy vất bỏ những việc tối tăm, và hãy mặc lấy khí
giới sự sáng” (Rm 13, 12)... Các bài đọc về thánh Gioan Tẩy giả
khiến chúa nhật thứ hai và thứ ba mùa Vọng thành thời gian đặc biệt
thích hợp cho việc cử hành bí tích Thánh Tẩy trong bối cảnh của phụng vụ
chúa nhật. Nghi thức rửa tội trẻ em cũng có nhiều quy chiếu về việc
Chúa đến lại lần thứ hai như việc trao cây nến thắp sáng cho trẻ với lời
kèm theo: “Hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô. Anh chị em là những bậc làm
cha mẹ và người đỡ đầu, ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm
nom, tức là lo lắng cho trẻ nhỏ này đã được Chúa Kitô soi sáng, luôn
luôn sống như con cái sự sáng và bền vững trong đức tin. Nhờ đó, khi
Chúa đến, chúng được ra nghênh đón Người với toàn thể các thánh trên
trời”. Với những ai được tái sinh với Đức Kitô trong bí tích Thánh
Tẩy, thời kỳ chuẩn bị Đấng cứu chuộc ra đời cũng mang màu sắc thanh tẩy.
Như Đức Giêsu sinh ra từ cung lòng Đức Maria, cũng vậy, nhờ bí tích
Thánh Tẩy, chúng ta được tái sinh làm con Thiên Chúa. Trong bí tích
Thánh Tẩy, chúng ta nhận được lời mời gọi chuẩn bị đường cho Chúa đến
bằng các công việc của lòng bác ái và công bình. Các bài đọc của chúng
ta trong suốt mùa này cũng nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa của chúng
ta là Thiên Chúa của kẻ thấp bé và nghèo khổ. Nghi thức sám hối
Mùa Vọng được thiết lập, khởi đầu, như một mùa sám hối chuẩn bị cho
cuộc phán xét cuối cùng và người Công giáo theo truyền thống dùng mùa
Vọng để dọn lòng xưng tội mừng lễ Chúa Giáng sinh. Các bài đọc và lời
cầu nguyện của mùa Vọng phản ánh hai tính chất của mùa Vọng: dọn mình
xứng đáng tiếp đón Chúa; qua việc sám hối, chúng ta trở nên sẵn sàng
trong tâm trí trước việc Chúa đến. Chăm sóc mục vụ cho kẻ liệt
Mặc dù mùa Vọng là một thời gian bận rộn, tuy nhiên, cộng đoàn giáo xứ
và đặc biệt các linh mục, giáo sĩ phụ trách và phục vụ giáo xứ cũng
không nên quên những người bệnh, những người đau yếu không còn khả năng
thể xác để tham dự các cử hành phụng vụ trong mùa Vọng. Hơn ai hết, họ
là những người chờ đợi Chúa đến với họ trong những giờ phút thử thách
của bệnh tật này, do đó, cộng đoàn giáo xứ nên tổ chức viếng thăm, đưa
Mình Thánh Chúa...những người bệnh không thể tới nhà thờ cử hành phụng
vụ với cộng đoàn. Ý NGHĨA MÙA GIÁNG SINH Mùa
Giáng sinh là mùa thi vị nhất của năm phụng vụ. Các bài ca ghi dấu ấn
sâu đậm nhất trong ký ức người Kitô hữu là các bài ca Giáng sinh. Những Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời, Cao cung lên, Đêm thánh vô cùng...Và những đĩa nhạc Noel ngoại quốc hàng năm nghe đi nghe lại vẫn thấy hay.
Nhưng Giáng sinh không phải chỉ là ngày lễ của những ký ức xa xôi từ
thuở nào và của thời hiện tại. Phụng vụ Giáng sinh đưa chúng ta đi vào
chương trình cứu độ của Thiên Chúa khi nhắc nhở cộng đoàn Giáng sinh
chính là “ngày lễ của sự cứu độ chúng ta” (collecta, lễ đêm), sự khởi
đầu của việc cứu chuộc chúng ta” (lời nguyện dâng lễ, lể Đêm). Giáng
sinh là sự khôi phục trật tự của vũ trụ khi Thiên Chúa và nhân loại lại
kết hợp làm một qua việc làm con của Chúa Giêsu Kitô: “...” (Lời nguyện
dâng lễ, lễ Đêm). Giáng sinh là một lễ của ánh sáng. Ánh sáng chiếu trong đêm tối. Ánh sáng không chỉ chiếu trên chúng ta mà trong chúng ta.
Giáng sinh không phải là thời để hoài cổ mà kêu gọi chúng ta tham gia
tích cực vào mầu nhiệm, một kế đồ đã bắt đầu được triển khai với mầu
nhiệm Nhập thể: Con Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta để cứu độ
chúng ta. Giáng sinh như vậy không phải là ký ức về một sự kiện đã diễn
ra tại Bêlem, vào một đêm nọ, cách nay trên hai ngàn năm, mà còn là và
nhất là sự kiện của hôm nay và tại đây. Cái ‘hôm nay’ của Đức Mẹ Maria,
của thánh Giuse, của các người mục đồng cũng là cái ‘hôm nay’ của chính
chúng ta. Các hoàn cảnh lịch sử nhất định đã có ảnh hưởng trên sự
phát triển các điểm nhấn của lễ và mùa Giáng sinh. Tin Mừng Giáng sinh
được viết sau cùng. Sang thế kỷ IV, trước trào lưu mang tên Arius, phủ
nhận thiên tính của Chúa Giêsu, tại Công đồng Nixêa (325), Giáo Hội
tuyên xưng Chúa Giêsu là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh
sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật...Làm một với Thiên Chúa Cha”
(Kinh Tin kính của công đồng Nixêa). Như vậy, Chúa Giêsu không chỉ thuần
tuý là một tạo vật thánh thiêng của Thiên Chúa, mà Người là Thiên Chúa
toàn năng, ở cùng Thiên Chúa từ nguyên thuỷ, “được sinh ra mà không phải
tạo thành” (ibid). Một hoàn cảnh lịch sử khác cũng có ảnh hưởng
trên sự phát triển của lễ Giáng sinh hay đúng hơn, cho việc mừng lễ
Giáng sinh vào ngày 25/12. Đó là vào năm 274, hoàng đế Aurelius đã quyết
định ngày 25/12 – ngày đông chí là ngày dâng kính Natale Solis Invicti,
một ngày lễ của lương dân kính “Thần Mặt Trời vô địch”. Vì có nhiều
đoạn Thánh Kinh khẳng định Đức Kitô là ánh sáng, ánh sáng của thế giới,
nên cũng dễ hiểu khi Giáo Hội ‘rửa tội’ cho ngày lễ này của người lương,
và biến việc kính mặt trời thành việc kính Mặt Trời công chính. Một
lý do khác nữa của việc lễ Giáng sinh được mừng vào ngày 25/12: các
Kitô hữu tiên khởi cho rằng Chúa Giêsu sinh ra vào ngày 25/12. “Vào buổi
đầu thế kỷ thứ ba, các nhà thần học Kitô giáo đã tính toán về ngày sinh
của Đức Giêsu vốn không được ghi trong các sách Tin Mừng. Biểu tượng
Chúa Kitô Mặt Trời cắm rễ sâu trong ý thức của người Kitô hữu khiến họ
có sự quan tâm đặc biệt tới các thời điểm phân và điểm chí” (Năm phụng
vụ, trg. 123). Và hậu quả là sự kiện ông Gioan Tẩy giả ra đời được đặt
vào ngày hạ chí (“Tôi phải bé đi”, Ga 3, 30), và Chúa Giêsu ra đời sáu
tháng sau, vào đông chí “Và Người phải lớn lên”, ibid.). Đối với những
con người có cuộc sống gắn với mặt trời, mặt trăng và các mùa hơn chúng
ta, những thời gian này có ý nghĩa rất đặc biệt. Các Kitô hữu tiên khởi
có thể đã coi sự Nhập thể của Chúa – ra đời, chết và sống lại – được
khắc ghi trong vũ trụ. Giáng sinh là một ngày lễ trọng thể như ngày
lễ Phục sinh, quá lớn để chỉ được mừng trong một ngày duy nhất: Giáo Hội
đã dành một thời gian dài để suy nhiệm về mầu nhiệm trọng đại này. Tuần
bát nhật lễ Giáng sinh được cử hành một cách đặc biệt trọng thể. Ngày
Chúa nhật trong tuần bát nhật, chúng ta tiếp tục mừng sự nhập thể của
Đức Kitô, từ một nhãn giới khác với lễ kính Thánh Gia của Đức Giêsu, Mẹ
Maria và thánh Giuse. Tuần bát nhật kết thúc với lễ kính Đức Mẹ là Mẹ
Thiên Chúa, vào ngày 1/1, ngày lễ trọng thể đầu tiên kính Đức Mẹ Maria,
kết quả của Công đồng Êphêsô. Mùa Giáng sinh tiếp tục với lễ trọng
thể sự Hiển Linh của Chúa, mừng việc Chúa Kitô “tỏ mình” ra. Hiển Linh
trong truyền thống thường được mừng ngày thứ mười hai sau lễ Giáng sinh
(6/1), và là một ngày lễ nghỉ. Nhưng tại những nơi lễ Hiển Linh không
phải là lễ nghỉ, thì được dời vào ngày Chúa nhật. Mùa Giáng sinh kết
thúc với lễ kính Chúa Giêsu chịu phép Thánh Tẩy. Với việc Chúa Giêsu
chịu Thánh tẩy, kết thúc thời kỳ ẩn dật của Chúa Giêsu và bắt đầu thời
kỳ sứ vụ công khai của Người. Các mùa và ngày lễ tiếp theo của năm Phụng
vụ sẽ cho chúng ta được đi tiếp với Đức Kitô trong những đoạn đường
tiếp theo của sứ vụ của Người. KẾT LUẬN
Như vậy, năm Phụng vụ Giáo Hội vừa mở đầu, với những mùa, những ngày lễ,
với những bài đọc, lời kinh, câu hát đã được ấn định, chính là lời mời
gọi các cộng đoàn và từng người tín hữu ý thức và tích cực sống trong sự
hiệp thông với công cuộc cứu độ Thiên Chúa đang thực hiện giữa cộng
đoàn phụng vụ.
Vương Nghi và Giuse Nguyễn
|
|
Tin/Bài mới
Tin/Bài cùng ngày
Tin/Bài khác
|
|