Đấng
Kitô của Thiên Chúa.
(Suy
niệm của Lm Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 23:35-43 là màn chế giễu
cuối cùng (x. 22:63; 23:11) Chúa Giêsu chịu trước khi Người trút
hơi thở cuối cùng (23:44-49). Người đã đến Núi Sọ, bị
đóng đinh giữa hai phạm nhân. Áo xống của
Người cũng bị tước đoạt (23:33-34). Trình thuật nầy có rất
nhiều nhân vật: dân chúng, các thủ lãnh, lính tráng, hai
phạm nhân với hai thái độ khác nhau và Chúa Giêsu. Có
thể chia đoạn nầy làm hai: - Nhóm dân chúng, thủ
lãnh và quân lính (23:35-38); - Hai phạm nhân (23:39-44). Chúa Giêsu là trung tâm của cảnh chế giễu
nầy.
Luca đã dùng phân từ “kai”, “và”
để lên kết các nhóm người lại “và dân chúng
(c. 35) - và các thủ lãnh” - “và quân lính” - “và tấm bảng”.
Mỗi người mỗi cách, nhưng chung một thái
độ chế giễu Chúa Giêsu. Điểm chung là họ
dùng câu điều kiện “nếu”, trong đó họ có
lời thách thức giống nhau “Hãy tự cứu mình” (cc.
35.37.39), và họ gọi Chúa Giêsu bằng những
tước hiệu tương tự nhau “Đấng Kitô”
(c. 35), “Vua dân Do thái” (c. 37); “Đấng Kitô” (c. 39). Câu
trả lời cho những thách thức và chế giễu
nầy nằm trong lời tuyên xưng của phạm nhân
thứ hai (c. 42), và trong lời hứa thiên đàng cho
phạm nhân nầy (c. 43).
Dân chúng (c. 35)
Luca chỉ ghi nhận “dân chúng
đứng nhìn”. Dân chúng không chỉ đứng đó nhìn
cách bàng quan, mà tham dự vào sự khinh rẻ và chế
nhạo diễn ra lúc ấy. Xem Tv 22:8: “Ai thấy (theôreô)
tôi cũng nhạo báng (ekmyktçrizô) lắc đầu bĩu
mỏ buông lời mỉa mai”. Trong 14:29, Luca cho thấy “cái
nhìn” (theôreô) gắn liền với “chế giễu” (empaizô)
(14:29). Chính dân chúng đã đứng chung
với các thượng tế và thủ lãnh trước toà
Philatô (23;13) và đồng ý kết án tử Chúa Giêsu (23:18). Vậy, dân chúng đứng nhìn lâu
(động từ ở thể phân từ hiện tại)
mà không phản đối, chính là đồng loã với
những người lên tiếng chế giễu
Người.
Các thủ lãnh (c. 35)
Ở đây Luca chỉ nói đến
“các thủ lãnh”, trong khi ở 23:13 và 24:20, ông nhắc đến cả các thượng
tế. Động từ ekmyktçrizô nghĩa là “nhạo báng”;
chỉ gặp trong 16:14; 23:35. Có thể có mối liên hệ giữa
đoạn nầy với Tv 22:8. Trong lời họ
nhạo báng, Luca nhấn mạnh đến khía cạnh
cứu chuộc của Chúa Giêsu, tư cách Con Thiên Chúa
được Thiên Chúa sai đến. Cụm từ “Hãy
cứu lấy chính mình” được lập lại 3
lần bởi các thủ lãnh (c. 35), quân lính (c. 37) và phạm
nhân (c. 39). Động từ “sozô” “cứu” dùng rất
nhiều trong trình thuật nầy (cc. 35[2x].37.39). Nó mang ý
nghĩa rộng hơn sự chữa lành bệnh. Đó là
cứu khỏi tội và đưa vào Nước Trời
(x. 7:50; 8:48.50; 17:19; 18:42). Động từ “sozô” và tước
hiệu “Christos”, Kitô, liên hệ với nhau. Sau lời Phêrô
tuyên xưng Người là “Đấng Kitô” (9:20), Chúa Giêsu nói đến sự cứu
độ cho những ai bỏ mình và vác thánh giá đi theo
Người (9:24).
Tước hiệu “Đấng Kitô của Thiên Chúa” đã
được Phêrô tuyên xưng lần đầu tiên (9:20). Tước hiệu nầy nhấn
mạnh nguồn gốc của Đấng Kitô và
tương quan và sự thông hiệp của Người
với Thiên Chúa. “Của Thiên Chúa” có nghĩa là do Thiên Chúa
tuyển chọn và sai đến. Tước hiệu “Kitô”
đứng một mình như trong lời của phạm
nhân thứ nhất (c. 39) có thể hiểu là một
đấng thiên sai, một vị vua được
xức dầu nào đó. Rồi tước hiệu
“Người được tuyển chọn” cũng nói
lên liên hệ với Thiên Chúa (18:7). Chính Thiên Chúa xác nhận
điều nầy về Chúa Giêsu trong biến cố
biến hình (9:35).
Nhóm quân lính (c. 36)
Sau các thủ lãnh tôn giáo, đến dân
ngoại chế giễu Chúa Giêsu. Họ là những
người canh giữ (22:63), Hêrôđê (23:11), lính tráng (23:36). Điều nầy đã được nói
đến trong lời tiên báo thứ ba về cuộc
khổ nạn (18:32; 22:62). “Empaizô” “chế giễu” là khinh rẻ và
lấy người khác làm trò chơi cho mình. Những
người canh giữ Chúa Giêsu đã bịt mắt Người,
đánh Người và bảo Người đoán xem ai
đã làm điều ấy (x. 22:63-65); Hêrôđê muốn
Người làm những phép lạ để thoả mãn
sự tò mò của ông (23:8-9). Lính tráng bên thập giá
đưa giấm lên cho Người uống (23:36). Tước hiệu “Vua dân Do thái”
nầy phát xuất từ dân ngoại mà thôi: Philatô (x. 23:3),
tấm bảng treo trên đầu Người (23:38) và lính tráng ở đây. Lần
đầu tiên Chúa Giêsu được dân Do thái gọi là
vua, basileus, khi Người vào thành Giêrusalem: “Chúc tụng
Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến” (x. 19:38). Chúa Giêsu là vua, basileus, mà cũng là
Christos (x. 23:2).
Cho đến lúc nầy, cả các
thủ lãnh lẫn dân ngoại chẳng ai biết rõ và
chắc chắn Chúa Giêsu là ai. Người ta thắc
mắc về căn tính của Người (x. 20:41; 22:67; 23:2); ngoại trừ ma quỉ (4:34; 4:41;
8:28) và nhóm Mười Hai (9:20), không ai biết rõ căn tính của
Người. Người ta thắc mắc về
Người (x. 20:41; 22:67; 23:2). Bởi đó, họ nghĩ đây là
cơ hội cuối cùng họ có thể buộc Chúa Giêsu
chứng tỏ ra Người là ai, bằng cách làm theo yêu
cầu của họ. Chúa Giêsu đã không làm theo yêu cầu
của họ, vì Người biết họ không tin vào
Người ( 22:67), và chính khi chịu đóng đinh,
Người tỏ ra cách tỏ tường nhất
Người là Đấng Kitô của Thiên Chúa; nói cách khác là
Đấng Thiên Sai, được gởi đến
để cứu chuộc con người. Không làm theo
điều kiện họ đặt ra, Chúa Giêsu không
phải là Đấng Kitô theo ý nghĩ của họ.
Tấm bảng (cc. 23:38)
“Và” (xem trên) liên kết tấm bảng
nầy với những nhóm người nhạo báng Chúa
Giêsu. Có sự khác biệt ít nhiều giữa các tin mừng
về điều ghi trên tấm bảng treo trên đầu
Chúa Giêsu (x. Mt 27:37; Mc 15:26; Gio 19:19). “Houtos”
chỉ Đấng bị đóng đinh dưới
tấm bảng. Cách trình bày đơn sơ “Và có tấm
bảng trên đầu Người” muốn ám chỉ
điều ghi trên tấm bảng “Người nầy là
Vua dân Do thái” tương phản với người
đang bị đóng đinh. Như thế, tấm
bảng nối dài lời nhạo báng của lính tráng.
Phạm nhân thứ nhất (cc. 23:39)
Luca dùng động từ blasphçmçô, “nói
phạm thượng”, để chỉ thái độ
của người nầy đối với Chúa Giêsu.
Động từ nầy chỉ dùng ba lần trong Luca: nói
phạm thượng đến Chúa Thánh Thần (12:10), những người canh giữ và
phạm nhân nầy nói phạm thượng đến Chúa
Giêsu (22:65; 23:39). Như
thế, blasphçmçô là nói những lời chống lại Thiên
Chúa. Người nầy nói phạm thượng vì tình
cảnh bất lực và vô vọng của mình. Anh muốn
Chúa Giêsu dùng quyền năng của Đấng Kitô
để giải thoát anh khỏi cái chết gần
kề.
Phạm nhân thứ hai (cc. 40-42)
Người nầy ngỏ lời
trước tiên với người đồng chịu án
(23:40-41) và với Chúa Giêsu (23:42). Trong lời ngỏ với phạm
nhân kia, người nầy nói đến sự kính sợ
Thiên Chúa, đến việc nhìn nhận tội và chấp
nhận hình phạt xứng với việc đã làm và bênh
vực Chúa Giêsu là vô tội. Khi trách phạm nhân kia không kính
sợ Thiên Chúa bằng câu hỏi, người nầy gián
tiếp cho thấy ông có lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông quan toà là
tiêu biểu của những người không kính sợ
Thiên Chúa (18:2-4). Ngược lại, Mẹ Maria là
gương mẫu của người kính sợ Thiên Chúa.
Ai kính sợ Thiên Chúa thì được Người xót
thương (1:50).
Phạm nhân thứ hai nầy tỏ ra kính sợ Thiên Chúa
khi ông dám nói nghịch lại phạm nhân kia, cũng là
nghịch lại dân chúng, các thủ lãnh và lính tráng. Cái
chết gần kề, ông không sợ. Ông chỉ sợ
Đấng có thể ném cả thân xác và linh hồn ông vào
hoả ngục (x. 12:4-9). Bởi có lòng kính sợ nầy,
ông sẽ được Thiên Chúa xót thương và cứu
lấy ông.
Nói về Chúa Giêsu, ông bênh vực
Người là vô tội (23:41). Chính Philatô cũng đã nhận ra như thế (23:22). Ngỏ lời với Chúa Giêsu, ông
gọi Người bằng tên “Giêsu”, chứ không bằng
bất cứ tước hiệu nào. Tên “Giêsu” nầy liên
kết với “Đấng Thánh của Thiên Chúa (4:34),
với “Con của Đấng Tối Cao” (8:28), với “Con
vua Đavít” (18:38), với “Thầy” (17:13) và “Chúa” (Cv 7:59).
Ông xin Người nhớ đến ông trong Nước
của Người. Mimneskomai, “nhớ”, bao hàm ý nghĩa
cứu độ. Thiên Chúa nhớ tỏ lòng thương
xót trên Abraham và con cháu ông đến muôn đời (1:54).
Thiên Chúa nhớ đến giao ước mà cứu khỏi
tay kẻ thù (1:72). Ông nói đến “Nước”, basileia,
của Người. Nước của Chúa Giêsu
đồng hóa với Nước của Thiên Chúa (22:29.30);
“Nước Thiên Chúa” được nhắc đến
tới 31 lần trong Luca. Như thế lời của
phạm nhân thứ hai nầy ngỏ với Chúa Giêsu
trở thành câu trả lời gián tiếp cho những
người nhạo báng trên, và đó cũng là lời tuyên
xưng đức tin của ông: - “Giêsu” là Con Thiên Chúa, nên
Người mới có thể nhớ và tỏ lòng thương
xót ông như Thiên Chúa; - “Giêsu” là Đấng Kitô, là Vua nên
Người mới có “Nước của Người”; -
Nước của Người là Nước của Thiên
Chúa và Người là Con Thiên Chúa; đồng thời
cũng là Con vua Đavít. Vậy Người thật sự
là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, và cũng là “Vua dân Do
thái”. Chúa Giêsu trả lời với phạm nhân nầy
bằng lời hứa là hôm nay ông sẽ cùng với
Người trong thiên đàng. Đây là thiên đàng của
Thiên Chúa (x. Kh 2:7). “Ở trong thiên đàng” là ở trong
sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Nói cách
khác là “trong tay” của Người (x. 23:46). Phạm nhân
thứ hai đã tuyên xưng Chúa Giêsu trước mặt
mọi người, nhất là những người
chối bỏ Người; bởi đó ông
được Người nhận biết và cho
hưởng Nước Trời (x. 12:8).
Chúa Giêsu không chết trong thinh lặng.
Người chết sau khi được tuyên xưng cách
công khai là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Như thế
cái chết trên thập giá của Người có tính cách
cứu độ và mang ơn giải thoát đến cho
mọi người.