Ai là
người công chính?
Ngày kia, Khổng Tử dẫn học trò từ
nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám
học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh
được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời
Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lâm
cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng
Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.
Ngày đầu tiên khi đến đất Tề,
Khổng Tử và các môn sinh được một
người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng
Tử liền phân công: Tử Lộ và một số môn sinh
khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm
nhận việc nấu cơm.
Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên,
Khổng Tử bỗng nghe tiếng động ở nhà
bếp, nhìn xuống, người bắt gặp Nhan
Hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm
lại từng nắm nhỏ rồi từ từ
đưa vào miệng. Thấy cảnh học trò đang
ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở:
“Người học trò tin cẩn nhất của ta lại
là kẻ ăn vụng?” Khi Tử Lộ và các môn sinh khác
trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng
Tử cho tập họp tất cả lại và nói:
-
Bữa cơm đầu tiên này trên
đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ
đến quê hương. Thầy nhớ đến cha
mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để
cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không? Nhưng liệu
nồi cơm này có sạch chăng?
Nhan Hồi liền chắp tay thưa:
-
Dạ thưa thầy, nồi cơm
này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con
mở vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn
vào, bò hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả
nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm
lại nhưng không kịp. Sau đó, con định
xới lớp cơm bẩn vất đi, nhưng nghĩ
rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn
phần cơm ấy. Thưa thầy, như vậy là hôm
nay con đã ăn cơm rồi.
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng
mặt lên trời mà than rằng:
-
Chao ôi! Thế ra trên đời này có
những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà
vẫn không hiểu được đúng sự thật.
Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ
hồ đồ!
Cho dù là bậc hiền triết như đức
Khổng Tử thế mà suýt nữa đã trở thành
kẻ hồ đồ, suýt nữa đã phê phán
người học trò rất mực chân thật và khiêm
tốn, sẵn sàng chịu thiệt về phần mình
để được lợi cho anh em. Đó cũng là
cám dỗ rất thường gặp nơi những
người được xem là đạo đức
thánh thiện, những người đã đắc thủ
được một số nhân đức nào đó,
đã làm được nhiều việc lớn lao, đã
leo lên được chức vụ cao trong xã hội,
đã đạt được một số thành tích trong
đạo ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh
rẻ người khác lắm, nếu chẳng công khai thì
cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được khi
thì lộ ra. Chuyện ấy thường tình lắm nên
Chúa Giêsu mới nhắc nhở chúng ta qua dụ ngôn:
“Người Pharisêu công chính và người thu thuế
tội lỗi”.
Người Pharisêu lên đền thờ cầu
nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích.
Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra ông
đang độc thoại một mình. Ông “tạ ơn
Chúa” nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn
ông.
Quả thật, bảng liệt kê công trạng của
ông không có gì sai. Những điều luật cấm ông không
dám làm, những điều luật buộc thì ông còn làm
hơn mức qui định. Ông thật là con người
đúng mực, một con người hoàn hảo, không có gì
để chê trách, một tín đồ trung thành với
lề luật, một mẫu gương tuyệt vời.
Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự mãn
tự kiêu nên bao việc lành phúc đức của ông theo
“cái tôi” bọt bèo của mình mà trôi ra sông ra biển hết.
Cái tôi của ông quá to, đến nỗi ông chỉ nhìn
thấy mình mà không thấy Chúa; công trạng của ông quá
nhiều đến nỗi ông chỉ nhìn thấy nó là
đức độ của ông chứ không phải là do
ơn Chúa; cái tự mãn của ông quá lớn, cho nên ông
thẳng thừng khinh miệt anh em.
Sai lầm trầm trọng của ông Pharisêu bắt
đầu từ câu này: ‘Vì con không như bao kẻ khác: tham
lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế
kia”. Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của
ông với người khác, mà biết đem cuộc
sống của mình đối chiếu với cuộc
sống thánh thiện của Đức Kitô, thì ông sẽ
nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn
bất toàn biết là dường nào. Chính khi đó, ông
mới cần đến lòng nhân từ xót thương
của Chúa, cần đến sự tha thứ và khoan dung
của Người. Chính lúc đó, ông mới biết
cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và
khiêm tốn của người thu thuế: “Lạy Thiên
Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Sai lầm căn bản của người Pharisêu còn
ở chỗ ông đã không nhận ra sự công chính là
một ân huệ Chúa ban chứ không phải tự ông mà có,
tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật
được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và
nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc
đó ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn
công chính nữa.
Người thu thuế nhận mình lầm lỗi, ông
biết rõ tội mình vô phương cứu chữa,
chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết
đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót
Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan
dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công chính bên trong. Chính
tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công
chính.
Như thế, những kẻ cho mình là thánh thiện,
là đầy đủ, thì sẽ trở về con số
không; còn những kẻ nhận mình là không thì sẽ
đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng. Vì phàm “Ai tôn mình lên
sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống
sẽ được tôn lên”.
Lạy Chúa, chúng con có là gì mà chẳng do lòng Chúa
thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận
mình thiếu sót lỗi lầm, để được
Chúa xót thương tha thứ.
Xin cho cuộc sống chúng con luôn biết rập theo
khuôn mẫu thánh thiện của Đức Kitô là
Đấng Công Chính tuyệt đối. Amen.
|