Tin Mừng thúc bách tôi – Lm G.
Nguyễn Cao Luật
Hơn
một năm trước đây, nhân loại trong bầu
khí chuẩn bị buớc vào thiên niên kỷ thứ ba,
kỷ niệm 2000 năm Mầu Niệm Nhập Thể.
Trong dịp trọng đại đó, Giáo hội nhìn
lại việc loan báo Tin Mừng cho thế giới,
đồng thời đề ra những đường
huớng mới cho một cuộc loan báo Tin Mừng cách
cụ thể cho từng châu lục. Đặc biệt
với giáo hội tại Á Châu đã vui mừng đón
nhận được Văn kiện "Eccelesia in Asia -
Giáo Hội Tại Á Châu" được công bố
tại New Delhi (Ấn độ), tháng 11 năm 1999, như
một "kim chỉ nam" cho giáo hội nơi đây
chuẩn bị mừng Năm Đại Toàn xá 2000;
đồng thời có dịp nhìn lại vấn đề
truyền giáo của mình và tìm ra một hướng đi
mới cho thiên niên kỷ này.
Và
mới đây trong phiên họp chung ngày 10-10-2001, ĐHY Jan
Schotte, Tổng thư ký Thượng Hội Đồng
Giám Mục, đã loan báo các nghị phụ về việc
công bố Văn kiện Hậu- Thượng Hội
Đồng Giám Mục riêng của Châu Đại
dương (Ecclesia in Ocaenia). Ngài nói: "Tôi vui mừng loan
báo trong phiên họp chung này là Đức Thánh Cha, sau khi suy
tư lâu dài và bàn hỏi, đã quyết định công
bố Tông huấn Hậu- Thượng Hội Đồng
"Ecclesia in Oceania" tại Vatican (thay vì đi
đến một địa điểm trong miền này),
trong một buổi tiếp kiến riêng, được
ấn định vào ngày 22 tháng 11 năm 2001, lúc 11g30,
tại Phòng Khánh Tiết Clementina của Phủ Giáo Hoàng,
nhân dịp kỷ niệm năm thứ bốn của
lễ nghi khai mạc khóa họp riêng cho Châu Đại
dương".
ĐHY
Jan Schotte nhấn mạnh: "Trong lúc này, tôi xin các Nghị
phụ cầu nguyện cho Giáo hội tại Châu
Đại Dương, đã từ lâu chờ đợi
với nhiều lo âu về văn kiện này. Giáo hội
trong miền này được mời gọi đón
nhận giáo huấn Hậu Thượng Hội
Đồng trong tinh thần yêu mến, được
mời gọi phổ biến văn kiện này và thực
hiện nội dung của nó trên cấp bậc giáo phận
và giáo xứ với lòng nhiệt thành truyền giáo, đáp
lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha tiến
đến việc tái rao giảng Tin Mừng, cách riêng trong
lúc bước vào Ngàn Năm thứ ba". Với những
ý nghĩa đó, Chúa Nhật Truyền Giáo có chiều kích
của một cuộc khởi khởi đầu mới
trong nỗ lực loan báo Đức Giêsu cho thế
giới.
Anh em sẽ làm chứng cho Thầy
Các
tông đồ là những người được
Đức Giêsu kêu gọi để chia sẻ cuộc
sống của Người; các ông đã được
tham dự và chứng kiến những biến cố khác
nhau trong cuộc đời của Đức Giêsu.
Những điều đó không phải chỉ là những
sự kiện lịch sử,?không phải chỉ làô1
xảy ra trong quá khứ. Các tông đồ không phải
chỉ là những chứng nhân về những sự
kiện tầm thường. Trái lại đây là những
biến cố làm đảo lộn lịch sử,
những biến cố đem lại ơn giải thoát cho
con người, và các tông đồ là những người
loan báo, những người tiếp tục thực
hiện công trình ấy.
Những
biến cố tập trung vào sự kiện: Đức
Ki-tô đã chết và sống lại. Các tông đồ không
làm chứng về điều gì khác ngoài sự kiện
đó. Đó không phải là hoạt động của con
người, nhưng là những hoạt động
của Thiên Chúa, để thể hiện tình thương
và ơn cứu độ cho thế giới. Loan truyền
sứ điệp ấy có nghĩa là làm chứng về
biến cố quan trọng này. Vì đó là biến cố
quan trọng nên phải dồn hết mọi nỗ lực,
mọi khả năng để loan báo, để làm
chứng. Phải làm chứng bằng lời nói, bằng
đời sống và có khi bằng máu nữa.
Do
đó, ý thức được tầm quan trọng của
sứ điệp, các tông đồ, những người
đã được chứng kiến tận mắt,
đã đem hết cuộc đời của mình
để làm chứng: các ông đã giảng dạy, đã
viết thơ, viết sách, đã chịu nhiều gian nan
vất vả với một ước mong duy nhất là
sứ điệp phục sinh được công bố cho
tất cả mọi người. Các ông đã không ngần
ngại chịu đổ máu, chịu hy sinh cuộc
đời, bởi vì các ông được sai đi làm nhân
chứng, theo gương Vị Thầy, Đấng đã
gọi và sai các ông đi. Và, như lịch sử cho
thấy, việc loan báo sứ điệp Ki-tô giáo trong
những thế kỷ đầu tiên dựa trên biến
cố nền tảng này. Các ki-tô hữu thời sơ khai
không chú trọng về các quy luật luân lý, cũng không trình
bày nhiều về các chi tiết trong cuộc đời
Đức Giêsu, nhưng tất cả cuộc sống,
mọi sinh hoạt của họ đều xoay quanh
biến cố phục sinh, vì họ hiểu rằng, đó
là biến cố trọng tâm của lịch sử ơn
cứu độ.
Như
vậy, sứ điệp Ki-tô giáo không phải là một ý
tưởng sáng tạo, một sáng kiến độc
đáo chi phối những khám phá mới; cũng không
phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác
quyết sự kiện: Đức Ki-tô đã chết và
sống lại. Ki-tô giáo trước hết là một
biến cố, và người loan báo phải làm chứng
về biến cố ấy.
Tin Mừng thúc bách tôi
Ơn
cứu độ phải được loan đi cho
đến tận cùng vũ trụ. Đó là sự nôn nóng
của một tâm hồn đã được đổ
tràn tình thương của Thiên Chúa. Đó cũng là thao
thức của một tâm hồn đã được
cảm hóa nhờ sự chết và sống lại của
Đức Ki-tô, và đó cũng là niềm phấn khởi
của tâm hồn tràn đầy sức sống và gắn
bó sâu xa với Đức Ki-tô.
Người
làm chứng phải là người có kinh nghiệm về
điều mình làm chứng. Tin Mừng không phải chỉ
là những điều được rao giảng, được
công bố, nhưng chính là cuộc sống, là những tiếp
xúc thâm sâu với Đức Giêsu, để rồi từ
đó mới chuyển qua những hoạt động
cụ thể, những công việc bên ngoài.
Đã
có một thời người ta quan niệm việc
truyền giáo như là những hoạt động rầm
rộ nhằm áp đặt, lôi kéo người khác theo
đạo. Dĩ nhiên, những công việc này rất ích
lợi nếu phát xuất từ tấm lòng nhiệt tình
với Tin Mừng, với ơn cứu độ. Khốn
thay, không phải lúc nào cũng được như
thế. Không những người ta đã bó buộc, đã
áp đặt, nhưng còn lợi dụng danh nghĩa
truyền giáo để mưu tìm những ích lợi cho
riêng mình… Tuy thế, chúng ta không hề có ý phủ nhận
công lao vất vả của các vị truyền giáo đã
đem Tin Mừng đi khắp thế giới. Chỉ có
điều là, vẫn có những bóng đen trong lịch
sử truyền giáo, và điều ấy phải là một
kinh nghiệm sâu sắc cho cuộc loan báo Tin Mừng mới.
Như vậy, truyền giáo không phải là lôi bè, kết
đảng làm sao lôi kéo nhiều người về với
phe mình. Nhưng truyền giáo phải là tiếng gọi, là
nhu cầu bên trong của cõi lòng tha thiết yêu
thương, của tâm hồn có được kinh
nghiệm về Đức Giêsu. Ngoài ra, truyền giáo
cũng chính là để mọi người
được sống trong tình thương,
được tôn trọng để từ đó
Nước Chúa được hiển trị và muôn
người hợp nhất nên một trong ơn cứu
độ nhờ mầu nhiệm Đức Ki-tô chịu
chết và sống lại.
Từ
đó, con đường hành động của
người Ki-tô hữu không thể nào khác hơn con
đường của Thầy mình: là hạt lúa mì gieo vào
lòng đất, chịu thối rữa đi; là phải cúi
xuống rửa chân cho anh em mình, là phải sẵn sàng
phục vụ giúp đỡ những người khó
khăn bên cạnh mình … nghĩa là phải đối
xử với mọi người cách chân tình, đầy
tâm tình yêu mến và kính trọng, bởi vì tâm hồn mình
đang thấm đầy tình yêu và sức sống của
Đức Ki-tô, Đấng đã chịu chết và
sống lại cho tất cả mọi người. Tin
Mừng là tin mừng tình thương, chỉ khi nào con
người sống trong tình thương, và loan báo, thể
hiện tình thương đó, khi ấy mới thực
sự là truyền giáo.
Lạy Chúa, con là sứ giả của
Chúa
"Lạy Chúa, Chúa đã muốn
chọn con để cộng tác vào việc loan báo Tin
Mừng của Chúa. Chúa muốn đến với nhân
loại qua cuộc đời của con. Chúa muốn đi
sâu vào cõi thâm cung của lòng người qua trung gian của
con. Con là người được tham dự vào công trình
của Chúa, con là sứ giả của Chúa. Không còn gì vĩ
đại hơn, không còn danh hiệu nào vinh dự hơn.
Vâng, lạy Chúa, Con biết rõ
điều đó.
Chính Chúa đã kêu gọi con, đã
đổ xuống trên con tình thương của Chúa. Chính
Chúa đã đóng dấu ấn của Chúa trên con, dù con
khốn khổ và nghèo hèn. Chúa đã muốn dùng con
để công bố những điều kỳ diệu mà
không sợ rằng chân lý bị suy suyển vì tội
lỗi của con. Riêng con, con rất vui mừng và sung sướng
được góp phần nhỏ nhoi của mình vào công
việc lớn lao của Chúa. Con cảm thấy hạnh
phúc vì được trở nên khí cụ để Chúa bày
tỏ quyền năng.
Xin cho con luôn cảm thấy ngỡ ngàng
khi thấy có những người nhận ra
được Chúa đã sai con đi và đã đón
nhận con với tư cách là sứ giả của Chúa.
Xin cho con cảm nhận được
niềm vui chân thật đó mỗi khi con được
đón nhận, dù con thật bất xứng.
Nhưng lạy Chúa, Con cũng nhận
ra đây là một gánh nặng.
Ù Con phải hoàn thành sứ mạng đã
được trao phó “khi thuận tiện cũng như lúc
khó khăn".
Ù Con phải loan báo về Chúa, phải làm
chứng - vì khốn cho con, nếu con không rao giảng. Con
không thể tháo lui, bỏ mặc sứ mạng của
mình.
Ù Con phải ra đi, ra khỏi mình
để loan báo, để thể hiện ơn cứu
độ của Chúa cho mọi người, dù
người đó là ai chăng nữa.
Đôi lúc con cảm thấy mình không
đủ sức để chu toàn sứ vụ, đôi lúc
con cảm thấy sứ vụ quá khó khăn mà
dường như con không thể vượt qua.
Ù Xin con luôn nhớ rằng Chúa vẫn
ở bên con, vẫn là người hướng dẫn,
vẫn là người chịu trách nhiệm về sứ vụ
đã trao cho con.
Ù Xin cho con đủ tin tưởng và can
đảm để trở thành một khí cụ tốt …
Và lạy Chúa,
Ù Làm sao con có thể thông truyền chân lý
của Chúa mà chính con lại đã không đích thân chiếm
lấy chân lý ấy, và Chúa cũng đã chẳng chiếm
lấy con rồi?
Ù Làm sao con có thể loan báo Tin Mừng mà
đã không được Tin Mừng ấy ghi dấu sâu xa
nơi tâm hồn mình.
Ù Làm sao con có thể làm chứng về
Chúa nếu con đã không có kinh nghiệm về Chúa?
Con hiểu rằng Chúa là Ánh Sáng, và ánh
sáng đó bừng lên là nhờ chất dầu của cuộc
đời con. Con phải để cho ánh sáng đó
bừng lên trong cuộc đời mình trước khi
bừng lên trong thế giới.
Cuối cùng, lạy Chúa, Chúa đã
muốn sử dụng con, xin đừng để con thành
một ngăn trở. Xin đừng để những
vụng về, những yếu đưối của con
làm hỏng đi công trình của Chúa, trái lại, xin cho
mọi người đón nhận được Chúa qua
cuộc đời của con." Theo Karl Rahner
|