Thể hiện của tự do thực sự
(Trích dẫn từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
– Radio Veritas Asia)
Trong suốt nhiều thế kỷ,
người Do thái đã phải còng lưng dưới
sức nặng của lao động
khổ sai bên Ai Cập. Dưới sự lãnh đạo
của Môsê, Thiên Chúa đã giải phóng họ và đưa
họ vào vùng đất tự do. Để đánh dấu
cuộc giải phóng khỏi các thứ khổ sai đó,
Thiên Chúa đã thiết lập một ngày trong tuần
như ngày Hưu Lễ. Đó là lý do tại sao
người Do thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu
lễ. Nó chính là biểu trưng của tự do, bởi vì
thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người Do
thái không thể có được một ngày nghỉ
ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ
của tự do, và đó là ý nghĩa
nguyên thủy của ngày Hưu lễ.
Thế nhưng, dần dà qua dòng thời gian
các nhà thần học Do thái đã thay đổi ý nghĩa
ấy của ngày Hưu lễ: thay vì là biểu
tượng của tự do, họ đã biến ngày
Hưu lễ thành một gánh nặng đầy đọa
và trói buộc con người; họ đã kéo dài ngày Hưu
lễ thành một bản kê khai tỉ mỉ những gì
không được phép làm trong ngày Hưu lễ và như
vậy dấu chỉ của tự do giờ đây
chỉ còn là một hình thức nô lệ mới đối
với người Do thái: thay vì là dấu chỉ của
tự do đưa con người vào gặp gỡ với
Thiên Chúa, ngày Hưu lễ đã trở thành một gánh
nặng chồng chất trên vai con người, nhất là
làm cho con người xa cách Thiên Chúa.
Đó cũng là tình trạng của lề
luật nói chung thời Chúa Giêsu. Luật
lệ không còn là vì con người, nghĩa là giải phóng
con người, mà trở thành gánh nặng đè bẹp con
người và tách lìa con người khỏi Thiên Chúa; con
người chú tâm thi hành lề luật hơn là yêu mến
Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Thái độ của 9
người phong cùi người Do thái trong Tin Mừng hôm
nay phản ánh tâm thức chung của
người Do thái thời đó. Chúa Giêsu
chữa lành 10 người phong cùi, trong đó chỉ có
một người Samari không phải tuân hành luật Do
thái. Theo đúng đòi hỏi của lề luật,
Chúa Giêsu đã yêu cầu 9 người Do thái đến
trình diện các tư tế để được xác
nhận là đã khỏi bệnh, riêng người Samari
không phải tuân giữ điều đó, nhưng đây
lại là người duy nhất trở lại cám ơn
Chúa Giêsu và ngợi khen Thiên Chúa.
Câu truyện trên cho chúng ta thấy luật
lệ đã cản trở con người đến
gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm tạ Thiên Chúa.
Người Samari vì không bị chi phối bởi lề
luật, nên đã được tự do để nói lên
tình cảm chân thật của mình, người này gần
với tôn giáo đích thực bởi vì ông có tự do
hơn. Thiên Chúa thi ân một cách nhưng
không thì con người cũng phải đáp trả
một cách tự do. Một tương quan như thế
không thể có được trong một xã hội lề
luật, trong đó con người chỉ biết tính toán theo thứ công bình hoán đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm
thức ấy, họ tính toán chi ly về công đức
của mình, họ lượng giá phần thưởng
dựa trên công nghiệp của mình. Chúa Giêsu đã
đánh đổ một quan niệm như thế về
tương quan giữa con người và Thiên Chúa: ơn
cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là ơn cứu
rỗi nhưng không, đến độ con người
chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào
lòng từ bi của Thiên Chúa, đến độ những
kẻ tội lỗi là những người đầu
tiên được vào Nước Chúa.
Ngày nay, có lẽ nhiều người chúng ta
cũng giống như 9 người phong cùi Do thái trong Tin
Mừng hôm nay. Họ đã bị lề luật giam hãm
trong Đền thờ để không còn có thể nói lên
lời tạ ơn đối với Đấng đã thi
ân cho mình; họ xem lề luật
trọng hơn điều thiết yếu của niềm
tin là lòng biết ơn và niềm tín thác. Cũng như
họ, có lẽ chúng ta đã tỏ ra trung thành một cách
chi ly với luật Hội Thánh, nhưng nhiều lúc chúng
ta vẫn còn tự hỏi: Tôi phải đọc bao nhiêu
kinh? Tôi phải lần bao nhiêu chuỗi?
Tôi phải ăn chay bao nhiêu lần? Tôi phải bố thí cho bao nhiêu người nghèo
khó? Tính toán như thế là quên rằng
Thiên Chúa như Chúa Giêsu mạc khải là Thiên Chúa Tình Yêu.
Ngài ban ơn cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta
chờ đợi và tính toán. Một Thiên Chúa
như thế, con người không thể có một tâm tình
nào xứng hợp hơn là lòng tri ân, niềm tín thác.
Đó là sự thể hiện của một tâm hồn
tự do đích thực, nhờ đó con người có
thể vượt qua bốn bức tường nhà
thờ để không ngừng gặp gỡ Chúa trong
cuộc sống mỗi ngày.
|