Gặp gỡ để bày tỏ lòng biết ơn
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ
cảnh
Với giai thoại Đức Giêsu chữa
mười người phong này (17,11-19), tác giả bắt
đầu phần thứ ba (17,11–18,14) của bài
tường thuật hành trình lên Giêrusalem: tại c. 11a,
độc giả gặp lời nhắc về hành trình này
lần thứ ba (hai lần trước: 9,51; 13,22). Cho dù c.
11b tạo ra một điểm khó giải thích (“thập
giá của các nhà chú giải”) do có những lời quy
chiếu về Samari và Galilê, độc giả vẫn không
quên rằng mối bận tâm thần học của Lc là đưa
Đức Giêsu về thành định mệnh, để
tại đó công cuộc cứu độ loài người
được vĩnh viễn hoàn tất.
Đây là giai thoại chỉ có trong Tin
Mừng Luca.
2.- Bố
cục
Bản văn có thể chia thành bốn
phần:
1) Địa điểm (17,11);
2) Đức Giêsu chữa lành mười
người phong (17,12-14);
3) Người Samari trở lại cám ơn
Đức Giêsu (17,15-18);
4) Liên hệ giữa đức tin và cứu
độ (17,19).
3.- Vài
điểm chú giải
- Đức Giêsu đi qua giữa hai miền Samari và
Galilê (11): “Đi qua giữa (dia meson) hai miền Samari
và Galilê” có thể có nghĩa là đi trong giải
đất làm thành biên giới giữa hai miền. Nếu
thế, hẳn là Đức Giêsu đi theo con
đường này để đến thung lũng
Giođan phía Sythopoli và từ đó đi xuống tới
Giêrikhô (18,35), rồi từ đó Người sẽ đi
lên Giêrusalem. Từ ngữ meson (mesos, “giữa”)
được dùng ở đối-cách, thay vì thuộc-cách
(Đối-cách: accusative;
thuộc-cách: genitive) và không có mạo từ dường
như hỗ trợ cho cách giải thích này. Cả về
mặt địa lý, cách giải thích này cũng chắc
chắn hơn, bởi vì nếu Đức Giêsu đi
về Giêrusalem, thì Người đi từ bắc xuống
nam; nhưng nếu Người “đi qua Samari và Galilê” (theo
một cách dịch), thì dường như Người
đi từ nam lên bắc! Phải chăng chi tiết
địa lý này có một ý nghĩa thần học? Trong
trường hợp này, chắc là Lc viết “đi qua
Samari và Galilê”, mà mắt nhìn lui về phía sau để ngó
lại đoạn đường đã đi qua. Con
đường và hoạt động của Đức
Giêsu luôn luôn được hướng dẫn bởi
Giêrusalem, nên bây giờ Người như đứng
tại Giêrusalem mà nhìn ngược lại. Ta chỉ có
thể hiểu được lộ trình, cuộc tiến
bước và tất cả hoạt động của
Người nếu khởi đi từ Giêrusalem, nơi
số phận bi thương đang chờ Người.
Phần tường thuật cuộc hành trình đã bắt
đầu với một sự cố nhắc đến
Samari, nay Samari cũng bắt đầu chặng cuối
của cuộc hành trình. Như thế, Samari là cái cầu
chuyển Lời Chúa từ Galilê đến Giêrusalem,
rồi từ Giêrusalem đến với Dân ngoại. Sau khi
sống lại, Đức Giêsu sẽ giao cho các môn
đệ sứ mạng này: “Anh em sẽ là chứng nhân
của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền
Giuđê và miền Samari và cho đến tận cùng trái
đất” (Cv 1,8). Như thế, con đường
Đức Giêsu theo hôm nay phác ra trước con
đường Giáo Hội sẽ theo sau này: con
đường của Giáo Hội là hoa trái của con
đường Đức Giêsu.
Chúng ta ghi nhận rằng về phương
diện ngữ học, cách giải thích thứ hai có
thể chấp nhận được: cách dùng dia trong
thể thơ với từ ngữ chỉ nơi chốn
ở đối-cách, dù chỉ có ở đây trong Tân
Ước, ta thấy có trong hy-ngữ sau này.
Cũng khó có thể chọn lựa dứt
khoát cách giải thích nào. Theo N. Guillemette, nếu Lc đã
muốn nói “ở biên giới của Samari và Galilê” như BJ
(“aux confins de la Samarie et de la Galilée”) hoặc “dọc theo biên
giới Samari và Galilê”, hẳn ông đã nói. Về
phương diện này, dường như cách dịch
của TOB (“Người đi băng qua Samari và Galilê”, “il
passa à travers la Samarie et la Galilée”) tự nhiên hơn. Mặc
dù cách giải thích thứ hai có thể khiến ta có ấn
tượng là hơi ép về mặt thần học, nó
lại hài hòa với các bận tâm thần học và
địa lý của tác giả Luca. Vì thế, trong khi
chờ đợi những khám phá mới, Guillemette nghiêng
về cách giải thích này.
- mười người mắc bệnh phong
(12): Rất có thể con số “mười” chỉ có
nghĩa là một con số tròn.
- Hãy đi trình diện các tư tế (14):
Đức Giêsu không chữa lành họ, mà bảo họ
cứ đi gặp các tư tế trong tình trạng
bệnh tật. Người gợi đến quy tắc
Lv 13,49. Các “tư tế” đây có lẽ nói chung là giới chức
phục vụ thánh điện, chứ không nhất
thiết là tư tế Do-thái đang làm việc tại
Đền Thờ Giêrusalem hoặc tư tế Samari
đang phục vụ tại Núi Garidim.
- Anh sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà
tạ ơn (16): Hành vi phủ phục cho hiểu là
anh ta nhìn nhận Đức Giêsu là người của Thiên
Chúa.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
* Địa điểm (11)
Vị trí địa lý cũng như ngôi làng
đều không được xác định. Điều
quan trọng là Đức Giêsu đang tiến về
Giêrusalem; trên đường, Người đi qua cả
Samari, là khối dân bị coi là bội giáo, và Người
đã có những khám phá độc đáo.
* Đức Giêsu chữa lành mười người
phong (12-14)
Vào thời Đức Giêsu, có câu tục
ngữ nói rằng: “Có bốn hạng người có
thể được coi như người chết, dù
vẫn sống, đó là những người nghèo,
người phong cùi, người mù và người không có
con”. Mọi chứng bệnh đều bị coi như
hình phạt của Thiên Chúa để trừng phạt
tội lỗi, nhưng bệnh phong cùi được coi
như là chính biểu tượng của tội.
Người Do-thái nghĩ rằng Thiên Chúa dùng bênh phong cùi
để trừng phạt kẻ ghen tị, kiêu căng,
quân trộm cướp, giết người, thề gian và
loạn luân.
Hôm nay Đức Giêsu gặp mười
người phong. Đôi khi số phận cướp
mất sự tự do hành động của con
người, buộc con người phải sống
một kiểu sống rất giới hạn. Ai mắc
bệnh phong là rơi vào tình trạng đó. Người
ấy bị dứt khoát loại khỏi gia đình và làng
quê và phải sống bên lề cộng đồng nhân
loại. Người ấy chỉ được sống
chung với những người cũng mắc chứng bệnh
đó. Vì sợ bị lây nhiễm, xã hội bắt họ
phải la to hoặc rung chuông mà báo cho biết là họ
đang đến; họ sống nhờ xin bố thí,
nhưng luôn phải ở cách những vùng dân cư; họ
được vào một làng, nhưng không được
vào một thành có tường lũy bao quanh. Như thế,
vì chứng bệnh này, họ phải sống một
kiếp sống thê thảm bên lề xã hội.
“Mười” có thể có nghĩa là “toàn vẹn”. Như
thế, “mười người phong” tượng trưng
cho tình trạng tội lỗi, là biểu tượng
của tội, của tình trạng bần khốn của
con người, của tình trạng xa lìa Thiên Chúa và người
thân cận. Đức Giêsu đã gặp mười
người đúng với hoàn cảnh của họ:
họ đứng đàng xa và kêu lớn tiếng xin
Đức Giêsu giúp đỡ. Đáng ghi nhận là nhóm này
gồm cả người Do-thái lẫn người Samari.
Hẳn là bệnh tật và sự bần khốn đã giúp
xóa đi những tị hiềm giữa Do-thái và Samari (x. Lc
9,53; Ga 4,4-9). Sự bất hạnh đã đưa họ
lại với nhau và làm cho họ thành bạn bè.
Mười người phong cùi này không tách riêng nhau ra mà xin
giúp đỡ từng người một; họ cùng đi
với nhau mà gặp Đức Giêsu. Lời cầu xin
của họ là lời thỉnh cầu của cộng
đoàn: “Lạy thầy Giêsu, xin rủ lòng thương
chúng tôi!” (c. 13).
Trong trường hợp bà goá Nain (7,11-17) và
người phụ nữ còng lưng (13,10-17), Đức
Giêsu đã lấy sáng kiến, đến gần và
thương xót cứu giúp các bà. Trong trường hợp
những người phong này, Người lại
để cho họ có sáng kiến, họ cầu khẩn
Người. Người cũng chẳng đến
gần họ, mà lại bảo họ đi xa
Người, như thể Người muốn tránh né
họ. Người phái họ đến gặp các tư
tế mà bề ngoài chưa hề làm gì để chữa
họ cả. Theo quy định của Cựu Ước
(Lv 13–14), các tư tế có thẩm quyền tuyên bố
về các chứng bệnh này. Các vị phải xác nhận
rằng một người phong đã thật sự
khỏi bệnh. Nhờ phán quyết này mà một
người đã hết bệnh được tái
nhập xã hội. Mười người phong này cần
được chữa lành đã, thì việc họ đi
trình diện các tư tế mới có ý nghĩa. Đức
Giêsu lại bảo họ cứ việc đi, vì
Người đòi hỏi họ có lòng tin để
hiểu rằng việc ra đi do Người truyền
lệnh có một ý nghĩa và đưa đến một
cùng đích. Trong khi đi đường, họ đã
được khỏi bệnh.
* Người Samari trở lại cám ơn
Đức Giêsu (15-18)
Cho tới lúc này, mười người
phong được giới thiệu như một nhóm.
Tất cả đều sống như nhau; tất cả
đều sống một biến cố như nhau. Bây
giờ có một người tách khỏi nhóm và quay lại
với Đức Giêsu. Tại sao chỉ có một
người trở lại bày tỏ lòng biết ơn?
Tại sao Đức Giêsu than thở về chín
người kia khi chính Người đã truyền họ
đi và trình diện trước tiên với các tư
tế? Phải chăng người Samari đã không vâng
lời Người? Có lẽ những người khác
cũng sẽ trở lại cám ơn Đức Giêsu,
nhưng lúc này họ vội vã đến gặp các tư
tế vì họ muốn được tuyên bố là
sạch bệnh càng sớm càng tốt và thế là bỏ
được số phận bi đát. Họ mong muốn
được trở vào cộng đồng nhân loại
càng sớm càng tốt, như là những thành viên có
đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ.
Họ nhìn tới tương lai, chứ không nhìn lui về
Đấng đã kéo họ thoát khỏi số phận bi
thương. Chỉ có một người duy nhất
đã “quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên
Chúa”. Chỉ có người Samari này đã nhận ra
được Đức Giêsu là ai và muốn nhìn nhận
tư cách đặc biệt của Đức Giêsu như
là trung gian của Thiên Chúa. Chín người kia làm các công
việc theo cách quy ước và đi theo những cách hành
đạo truyền thống, họ không nhận thấy
là một trật tự mới đã được
thiết lập. Điều này đã xảy ra cho dân Israel.
Những kẻ laic đạo, những người ngoại
giáo là những người đầu tiên nhận ra
rằng Đức Giêsu là Đấng trung gian đưa
ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho
trần gian.
* Liên hệ giữa đức tin và cứu
độ (19)
Người Samari này ca ngợi Thiên Chúa và cám
ơn Đức Giêsu. Anh coi điều Đức Giêsu
đã làm cho anh là một ân huệ của Thiên Chúa. Tất
cả mười người đều đã
được lành. Nhưng chỉ đối với anh
Samari này, cuộc chữa lành không những là dịp khôi phục
sức khoẻ và đời sống chung với loài
người, mà còn trở thành dịp gặp gỡ Thiên
Chúa và Đức Giêsu. Chứng nan y đã đưa anh
đến một tiếp xúc đầu tiên với
Đức Giêsu, một cuộc gặp gỡ từ
đàng xa. Sau khi được chữa lành, anh không
chạy xa Đức Giêsu, nhưng đã trở lại
với Người mà ca ngợi Thiên Chúa. Với lần
thứ hai này, anh có thể gặp Người gần
kề hơn, như Đấng đã tỏ lòng
thương xót anh. Không những trong tư cách là
người đã chữa bệnh phong, mà còn trong tư cách
là người có ơn ban thường trực là kinh
nghiệm này, Đức Giêsu chỉ cho anh lộ trình sau
này. Tất cả giai thoại kết thúc bằng câu nói:
“Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã
cứu chữa anh”.
Đức Giêsu không nói: “Tôi cứu chữa
anh”, mà lại nói: “Lòng tin của anh đã cứu chữa
anh”. Anh đã nhận biết hoạt động của
Đức Giêsu là Đức Chúa, anh đã đón nhận,
nay anh dâng trả lại cho Người. Những
người khác nhận được sự chữa lành
như là một món nợ được trả, họ
giữ ân huệ của Thiên Chúa lại cho mình. Chỉ có
anh Samari này “quay trở lại”, “hoán cải” và nhận
biết rằng anh ta mắc món nợ phải trả. Vì
thế, chỉ có anh này mới thật sự
“được cứu”.
Bằng việc quay trở lại với
Đức Giêsu, người Samari cho chúng ta thấy
rằng anh đã hiểu tại sao lúc đầu anh
lại được sai đến với các tư
tế. Anh phải nói cho họ biết tin này: Thiên Chúa
đã sai đến Đấng từng được các
ngôn sứ loan báo, Đấng làm cho người mù
được thấy, kẻ điếc được
nghe, kẻ què được đi, người chết
trỗi dậy và người cùi được lành (x. Lc
7,22). Anh làm chứng rằng Thiên Chúa ở gần mọi
người, kể cả người phong cùi. Từ nay
sẽ không còn chia cách giữa người khỏe mạnh
và người phong cùi, giữa người công chính và
lẻ tội lỗi.
+ Kết
luận
Đức Giêsu đã chiếu cố
đến cả mười ngươi phong cùi, dù họ
là người Do-thái hay là người Samari. Tuy nhiên cách
Người chữa lành đòi hỏi sự cộng tác
nghiêm túc của con người. Trước tiên, các
bệnh nhân phải đi trình diện với các tư
tế, y như thể họ đã lành: họ phải
chứng tỏ đức tin bằng cách vâng lời
Người mà đi đến với các vị lãnh
đạo có quyền cho họ được tái tháp
nhập vào trong cộng đồng. Sau đó, điều
mà Đức Giêsu chờ đợi chứ không truyền
lệnh: họ phải chứng tỏ đức tin vào
Người bằng cách nói lên tâm tình biết ơn. Chỉ
có một người bị coi là bội giáo, coi như
kẻ ngoại, là người Samari, đã quay trở
lại mà cám ơn, tức là nhìn nhận rằng
điều tốt lành mình có được là do một
Đấng khác. Chỉ khi thực hiện được
cả hai điều này, vâng lời và cám ơn Thiên Chúa,
người ta mới thực sự được lành
mạnh trọn vẹn. Đức tin phát sinh từ
việc nhận biết ân huệ Thiên Chúa ban và
được diễn tả ra bằng một tiếng
“cám ơn” không ngừng. Khi nhìn nhận người Samari
đã được đức tin chữa lành, Đức
Giêsu đã công nhận chỉ có anh này mới
được chữa lành hoàn toàn.
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Mười người phong cùi
được lành bệnh đang khi họ đi
đường với nhau. Tân Ước vẫn so sánh
đời sống Kitô hữu như một hành trình dài,
mệt nhọc. Sự lành mạnh thiêng liêng của chúng ta
không xả ra tức khắc. Nếu chúng ta đã sống
nhiều năm như một người “phong cùi”, chúng ta
sẽ không được chữa lành đột ngột.
Chúng ta phải đi với nhau, và trên đường
đi, chúng ta sẽ nhận ra rằng tất cả chúng ta
đã được chữa lành.
2. Nghĩ về thân phận người
phong, chúng ta phải đặt ra cho mình câu hỏi: Ai là
những người đang sống một cuộc
sống bên lề cộng đồng chúng ta? Họ đang
phải sống kiểu sống nào? Hôm nay, có những
dạng bệnh và tật mới, hoặc một sự sa
cơ thất thế, cũng khiến người ta có
thể bị đẩy ra bên lề xã hội. Phải
chăng chúng ta coi đó là chuyện đương nhiên,
dễ hiểu?
3. Thông thường khi nhận
được một sự trợ giúp, người ta mau
quên người đã giúp đỡ mình. Người ta say
sưa với viễn tượng tương lai đang
mở ra. Đối với Thiên Chúa, có khi ta còn đối
xử tệ hơn. Bởi vì Người thường
xuyên ban cho chúng ta qua nhiều ơn lành, chúng ta chẳng
nghĩ rằng mọi điều ta có đều là do Thiên
Chúa xót thương ban tặng. Chúng ta cứ lao tới
trước, bỏ lại đàng sau chúng ta Đấng
liên tục ban ơn để chúng ta có thể lao tới
phía trước.
4. Khi chúng ta nhận được một
điều tốt lành, chúng ta nên đặt ra cho mình câu
hỏi: Điều gì đáng giá hơn đối với
chúng ta, ân huệ hay là người ban ơn? Cần
phải đặc biệt đặt ra câu hỏi này cho mọi
ơn lành nhận được từ Thiên Chúa. Nếu
chúng ta chỉ chú ý đến ân huệ (quà tặng),
nghĩa là đến các của cải vật chất,
đến sức khoẻ, v.v., thì trái tim của chúng ta còn
giới hạn, còn ích kỷ. Nếu đi từ quà
tặng, chúng ta chú ý đến tình yêu và lòng nhân ái của ân
nhân, thì kinh nghiệm về ân huệ trở thành gặp
gỡ mới mẻ và riêng tư với người ban
ơn. Ân ban có thể là một sự trợ giúp lớn
lao. Nhưng điều làm cho chúng ta sung sướng hơn
nữa là có thể nhận biết sự tốt lành
của Đấng ban và có thể cám ơn Ngài về
điều đó. Không phải là Thiên Chúa nhận
được gì từ lời cám ơn của chúng ta.
Nhưng chúng ta sẽ nên nghèo nàn hơn nếu không cám ơn
Ngài. Nếu chúng ta chỉ ích kỷ nhìn vào tặng phẩm,
chúng ta đang mất khả năng thấy, trải
nghiệm và nhận biết tình yêu của Đấng ban
ơn.
5. Cám ơn Thiên Chúa là dâng trả ân huệ
về cho Ngài, là nhìn nhận Ngài là nguồn mạch tuôn trào
ra ân huệ chúng ta đã lãnh nhận. Cám ơn là đi vào
luồng tương giao tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa
đến với chúng ta và trở lại với Ngài.
Người vô ơn là người chặn đứng
luồng tương giao này lại, không cho nó trở về
với nguồn mạch, và sẽ làm cạn khô tương
giao đang có. Công trình cứu độ của Đức
Giêsu chỉ thực sự sinh hiệu quả nếu chính
chúng ta cởi mở để cho mọi sự quay trở
lại với Người.
|