Lòng tin
và thái độ sẵn sàng phục vụ
(Suy
niệm của Lm FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn Lc 17,7-9 [10]
thường được trích như là một “dụ
ngôn”. Kiểu gọi này được biện minh vì
dựa trên một lời hư cấu về một
cuộc gặp gỡ tưởng tượng giữa
một ông chủ và những người đầy tớ
làm việc ngoài đồng; lời này có tầm quan
trọng đối với thế giới tôn giáo. Trong khi
câu chuyện của Đức Giêsu thì hư cấu, nó
lại phản ánh tương quan ông chủ-đầy
tớ trong thế giới lúc ấy. Cử tọa rất
hiểu những chờ đợi của ông chủ
đối với đầy tớ của ông.
Tác giả Lc đã đặt dụ ngôn
này ở cuối một vài lời nói không liên kết
với nhau tại nguồn (cc. 1-6). Tuy nhiên, bài dụ ngôn
của chúng ta bắt đầu với câu hỏi của
Đức Giêsu ở c. 7, hẳn là ít ra phải liên hệ
với c. 6, bởi vì câu hỏi của Đức Giêsu
đi theo c. 6 mà không có chỗ nghỉ hoặc một
lời dẫn nhập.
Những gì chúng ta đọc
được ở cc. 5-6 liên hệ đến
đức tin. Các môn đệ xin đức tin, nhưng
qua câu hỏi, ta hiểu là họ đã có đức tin.
Nhưng lời của Đức Giêsu dường như
lại gợi ý rằng họ có ít đức tin hơn
họ tưởng; thậm chí họ không có đức tin
lớn bằng hạt cải, là thứ hạt giống
nhỏ nhất. Lý do khiến các ông xin thêm đức tin là
vì nội dung lời rao giảng trước đó của
Đức Giêsu (tha thứ cho người xin tha, bất
kể số lần) rất khó tuân theo. Có thêm đức
tin, họ sẽ có thể vâng theo. Đức Giêsu không
phủ nhận giá trị của việc gia tăng
đức tin, nhưng Người quả có nghi ngờ là
các ông không có đủ đức tin để vâng lời
Thiên Chúa, là Chủ của họ và đối tác ký giao
ước với họ.
Lời than thở này của Đức
Giêsu về đức tin của các môn đệ gợi ý
là có một dây liên kết với bài dụ ngôn. Nhận ra
rằng các môn đệ hiểu lầm là các ông đã có
đức tin, mà thật ra các ông không có một đức
tin để luôn luôn vâng lời, Đức Giêsu tận
dụng khái niệm “vâng lời” mà đưa ra một
dụ ngôn liên hệ trực tiếp đến tư cách
môn đệ: họ là những đầy tớ. Theo
một nghĩa nào đó, đối với các đầy
tớ, vâng theo các lệnh của ông chủ thì không khó
khăn gì. Nhưng phải nhìn xa đến việc vâng
lời chủ trong cả những hoàn cảnh khó khăn.
Thực tại ông chủ-đầy tớ là một ví
dụ tốt cho việc sống đời sống tôn
giáo: đầy tớ phải hành động như
đầy tớ. Các môn đệ đáng nhận lời
Đức Giêsu chỉ trích về tình trạng thiếu
đức tin, nhưng qua bài dụ ngôn, họ
được yêu cầu nhìn đến bản thân
để thấy rõ sự thật của họ: họ là
những đầy tớ phải vâng lời Đức
Chúa. Những giáo huấn của Đức Giêsu di
trước cc. 5-6 rất khó nghe, nên đòi hỏi tin
tưởng vào sự khôn ngoan của Đức Giêsu và qua
Người, vâng lời Thiên Chúa. Có ai nghĩ rằng mình có
đức tin mà lại không vâng theo các giáo huấn của
Đức Giêsu? Đúng ra, chúng ta phải lắng nghe
Đức Giêsu như là những đầy tớ, cho dù
các khó khăn của các điều răn của
Người có thế nào. Hiểu như thế, dụ ngôn
có một đường nối với những gì đi
trước: giáo huấn thì cứng rắn (không
được làm bất cứ điều gì làm suy
yếu đức tin của người thân cận do không
tha thứ), nhưng đây là ý muốn của Chúa, và chúng
ta, những đầy tớ của Người, chúng ta
biết vai trò của mình và vâng phục.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai
phần:
1)
Đức tin (17,5-6);
2)
Dụ ngôn Người tôi tớ (17,7-10).
3.- Vài điểm chú giải
-
xin thêm lòng tin (5): Câu này
có thể hiểu là: xin thêm đức tin vào niềm tín thác
mà chúng con đã có, hoặc thêm tin tưởng vào những
ân huệ khác mà chúng con đã lãnh nhận. Dựa theo văn
cảnh, có thể ưu tiên hiểu theo nghĩa
đầu.
-
Hạt cải (6):
Tiếng Hy Lạp là kokkos sinapeôs, tiếng Pháp là graine de
moutarde, tiếng Anh là mustard seed. Cây sinapi (ta tạm dịch
là “cây cải”) là một loại cây thông dụng bên Paléttina,
có thể cao tới ba hoặc bốn thước, dạng
mộc với các cành tỏa rộng. Hạt của nó không
phải là nhỏ nhất trong các loại hạt, nhưng
nhỏ nhất trong các loại hạt được
người ta gieo trồng, được dùng làm
mù-tạc và được tục ngữ Do Thái dùng mà
chỉ những gì nhỏ nhất.
-
cây dâu (6): Từ Hy
Lạp sykaminos (1 V 10,27; 1 Sb 27,28 … Bản LXX) để
dịch từ Híp-ri shiqmâh; thế mà shiqmâh là “cây sung” (HL
sykomorea, “sycamore”). Vậy hẳn sykaminos ở đây
cũng là sykomorea ở Lc 19,4: tác giả Lc dùng không phân
biệt hai từ này. Dù sao, tác giả muốn nêu ra hình
ảnh một cây khá to.
-
đầy tớ (7):
Tiếng Hy Lạp là doulos: người nô lệ hoàn toàn
lệ thuộc người chủ và đón nhận
mọi sự từ người chủ như những ân
huệ (x. Tv 123,2). Vào thế kỷ i, xã hội được
phân chia thành các giai cấp, chủ nhân và đầy tớ.
Đa số các công nhân là đầy tớ của một
ông chủ thì sống trong một ngôi làng và ra đi làm
việc cho ông chủ, rồi lại trở về làng
với một số tiền nhỏ là công lao động.
Đôi khi những người này chờ nơi quảng trướng
để mong có ông chủ nào thuê họ, vào bất cứ
lúc nào. Một loại đầy tớ khác, đó là
người sống trong nhà của chủ, nên không có tiền
công
-
lại bảo nó…? (7):
Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là “không”.
-
Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn…? (9): Câu hỏi này chờ đợi câu
trả lời là “không”.
-
vô dụng (10): Từ Hy
Lạp là achreios có nghĩa chữ là “vô ích, vô dụng”
(useless), nhưng ở đây, nghĩa thích hợp hơn,
đó là “không sinh lợi lộc” (unprofitable), bởi vì
chỉ làm đúng bổn phận. TOB dịch là quelconque (=
bon à rien), NAB dịch là unprofitable, New International Version dịch
là unworthy. Dịch là “vô dụng” dường như không
đúng, vì ba lý do: 1) Người đầy tớ trong
dụ ngôn đã tỏ ra có ích vì làm việc trong cánh
đồng suốt ngày; 2) Trong việc chúng ta vâng lời
Thiên Chúa, Người không bao giờ gọi chúng ta là “vô
dụng” cả; Kinh Thánh không có chỗ nào ghi nhận như
thế cả; 3) Từ ngữ Hy Lạp achreios này rất
hiếm, nên trong văn chương Hy Lạp, không có ví
dụ để giúp xác định ý nghĩa đúng
của nó. Dựa vào ngữ cảnh, co thế hiểu “vô
dụng” đây là người đầy tớ không có
quyền gì mà yêu cầu được đối xử
khác với những gì tư cách anh cho anh được
hưởng.
4.- Ý nghĩa của bản
văn
*
Đức tin (5-6)
Chúng ta không biết động lực
nào đã thúc đẩy các tông đồ xin Đức Giêsu
thêm lòng tin cho các ông. Rất có thể đó là những khó
khăn trong cuộc sống của những người
đi theo Đức Giêsu, như ta hé thấy ở Lc 17,1-4.
Đức Giêsu đã trả lời các tông đồ không
phải bằng cách cho một định nghĩa về
đức tin mà bằng cách ca ngợi sức mạnh
của lòng tin, với những hình ảnh có vẻ phi lý;
Người nhấn mạnh hơn nữa tầm quan
trọng của đức tin. Nếu người ta có
một lòng tin tưởng chân chính và thực hữu nơi
Thiên Chúa, thì sẽ xảy ra điều không sao làm
được theo các tiêu chuẩn loài người.
Để diễn tả điều này, Đức Giêsu
dùng các hình ảnh là “chuyển núi dời non” (x. Mt 17,20)
hoặc “nhổ bật rễ cây dâu mà trồng xuống
biển”. Người muốn nói rằng lòng tin, dù nhỏ
bé, luôn luôn là hiệp thông với Thiên Chúa, tức là thông
dự vào quyền lực của Ngài, mà đối với
quyền lực Thiên Chúa thì không có gì là giới hạn
cả. Cho dù Thiên Chúa có đặt người môn
đệ trước những nhiệm vụ và đòi
hỏi nhìn bề ngoài thì thấy không thể làm
được, Ngài vẫn có thể giúp họ có khả
năng thực hiện được. Cho dù Ngài hứa
một điều loài người thấy là không thể
làm được, Ngài vẫn có thể làm được:
trong dạng triệt để nhất, điều này
xảy ra với việc kẻ chết sống lại.
Chính vì thế Đức Giêsu đã nói với những
kẻ được Người giúp đỡ: “Lòng tin
của con đã cứu con” (Lc 7,50; 8,48; 17,19; 18,42).
*
Dụ ngôn Người tôi tớ (7-10)
Với công thức Người chọn
để đưa vào bài dụ ngôn, Đức Giêsu lôi kéo
cử tọa dấn thân ngay; họ được mời
gọi hãy phán đoán. Đây là kỹ thuật
thường được Đức Giêsu vận
dụng. Họ đều đã trải qua kinh nghiệm
Đức Giêsu mô tả, nên có thể trả lời câu
hỏi. Tuy nhiên, cũng có thể nói rằng câu chuyện,
trong khi là một lời mời gọi trực tiếp
gửi đến các thính giả, cũng nhắm
đưa tới câu trả lời chính Đức Giêsu cung
cấp ở c. 10.
Dụ ngôn được kể trong các
câu 7-10 có thể coi như một xác định lập
trường đối lập lại với giáo lý
của người Pharisêu về việc ban thưởng
cho các việc lành (x. Lc 18,18: “tôi phải làm gì?”; Lc 18,11-12:
người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện).
Nền tảng của tương quan của chúng ta
với Thiên Chúa hệ tại sự kiện Ngài là Chúa
của chúng ta, nên chúng ta phải quan tâm đến và thi hành
ý muốn của Ngài. Chúng ta không phải là những chủ
nhân tự do và độc lập, vì Thiên Chúa luôn luôn có
điều gì đó để nói với chúng ta. Tuy nhiên,
trước khi yêu cầu chúng ta điều gì, Ngài đã
ban cho chúng ta rất nhiều ân huệ rồi: sự
sống, các khả năng... Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa về
cuộc sống, nên từ nơi Ngài, phát xuất các
bổn phận của chúng ta. Ngài xác định cho chúng ta
đâu là con đường phải theo và đâu là mục
tiêu. Chúng ta chịu trách nhiệm trước nhan Ngài và chúng
ta sẽ phải trả lời với Ngài. Đồng
thời, chúng ta cũng phải biết rằng Ngài không yêu
cầu chúng ta điều vì võ đoán và phi lý. Chúng ta
phải tôn trọng Ngài và nhìn nhận Ngài là
Đấng tạo hóa và Chúa tể
của chúng ta. Đối với người anh em, chúng ta
phải kính trọng và gán cho họ phẩm giá của chính
chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ phải hành động
như những người quản lý trung thành, có trách
nhiệm. Khi làm mọi việc, chúng ta phải ý thức
rằng mình chỉ làm các việc bổn phận mà thôi.
Tuyệt đối không bao giờ được
tưởng rằng mình đã ban một ân huệ cho Thiên
Chúa khi tuân giữ các giới răn của Ngài và chu toàn các
bổn phận của chúng ta.
Dụ ngôn này cũng được các
nhà chú giải hiểu là được ngỏ riêng với
các thủ lãnh trong Hội Thánh: Các ngài đừng dừng
lại nghỉ ngơi vì cho rằng mình đã làm đủ
rồi. Đức Giêsu gợi lại hoàn cảnh xã
hội thời đó, có chủ nhân và nô lệ với
tương quan được xác định rõ ràng. Nô
lệ luôn luôn phải đưa mắt nhìn về phía
chủ mà đón nhận mọi mệnh lệnh. Khi thi hành
các mệnh lệnh, nô lệ chỉ làm “việc bổn
phận” mà thôi. Tất cả thì giờ, tài nguyên, sức
lực của con người phải được
tận dụng mà phục vụ Thiên Chúa. Rồi khi đã
chu toàn công việc, con người không được khoe
khoang hoặc đòi hỏi những quyền lợi
hoặc phần thưởng đặc biệt. Tác
giả muốn khẳng định rằng nơi
người tín hữu, mọi sự đều là ơn
Chúa, lòng tin cũng là một ơn Chúa. Tất cả
những gì con người nhận được
đều không hề tỷ lệ với những gì
họ đã làm. Mọi sự đều là hồng ân phát
xuất từ lòng nhân lành và từ bi của Thiên Chúa,
chứ không do một khoản hợp đồng giao kèo nào
cả.
+ Kết luận
Đức tin là niềm tín nhiệm
không lay chuyển rằng Thiên Chúa có quyền năng
vượt mọi múuc độ loài người; Ngài
đầy tình yêu, Ngài không quên chúng ta, Ngài hướng
dẫn chúng ta đến chỗ thành toàn. Với cái nhìn
đức tin, chúng ta hiểu mình chỉ là những tôi
tớ, lại là tôi tớ “vô dụng” vì chỉ biết làm
những việc phải làm. Hiểu như thế
chẳng hề làm chúng ta nản chí, bởi vì chúng ta
biết rằng mọi sự là của Thiên Chúa, là do Ngài.
Người tin vào Đức Giêsu và Thiên Chúa
được thúc bách xác định bản than tùy theo
tương quan của mình với Thiên Chúa: người
ấy là đầy tớ của Thiên Chúa và phải vâng
phục Ngài, cho dù giáo huấn của Ngài có khó khăn
đến đâu. Người ấy không là gì khác ngoài thân
phận đầy tớ, và chỉ được vinh
quang vì là đầy tớ. Người ấy không vô
dụng, nhưng luôn luôn là đầy tớ, và không là gì
khác, trong tương quan với các điều răn
của Thiên Chúa. Thật ra, được làm việc cho
Ngài đã là một vinh dự rồi, thì sao lại còn
chờ đợi có phần thưởng? Và như
thế, cuộc sống mai sau cũng là một hồng ân.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đứng trước các trách nhiệm cũng
như các khó khăn của cuộc đời, chúng ta noi
gương các tông đồ, không tránh né, không tìm cách
giảm thiểu, nhưng xin Chúa Giêsu ban thêm đức tin.
Chúng ta xin Người giúp kết hợp sâu xa hơn
với Thiên Chúa. Chỉ duy Thiên Chúa mới có thế giúp
đỡ chúng ta làm những việc mà người
đời nghĩ rằng sức con người không sao
làm nổi.
2. Nhờ đức tin, người tín hữu mở
lòng ra đón lấy sự giúp đỡ của Đức
Giêsu và như thế họ được chính quyền
năng của Người đến hỗ trợ. Cho dù
đức tin của họ nhỏ bé, cho dù nó chỉ
như một hạt cải, nếu nó thực sự là
đức tin đặt nơi Ngài, thì chính Thiên Chúa sẽ
làm cho họ tiến tới. Điều cần thiết là
họ không khép lòng lại với Ngài, ít ra họ giơ bàn
tay về phía Ngài. Thiên Chúa sẽ không để họ
phải té ngã. Ngài sẽ nắm chắc bàn tay của
họ và dẫn đưa họ tới đích.
3. Không chỉ khuyên chúng ta tin, Chúa Giêsu còn cầu
nguyện cho niềm tin của chúng ta, như Người
đã từng nói với Phêrô: “Thầy đã cầu
nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc
22,32). Bằng cách đó, Đức Giêsu đưa lời
thỉnh cầu của các môn đệ là được
thêm lòng tin đến chỗ thành toàn viên mãn. Chính
Người ngỏ lời với Chúa Cha để gửi
gắm các môn đệ. Chúng ta được mời
gọi cầu nguyện cho mình, cho nhau, đồng thời
chúng ta cậy dựa vào lời chuyển cầu của
Chúa Giêsu.
4. Khi đọc Dụ ngôn Người tôi tớ, chúng
ta không nên đi lạc sang đề tài “chủ nô” của
triết học Tây phương, cũng đừng
chạnh lòng về mặt luân lý mà cho rằng Thiên Chúa
chỉ coi chúng ta như những nô lệ! Trong Tin Mừng
Luca, không thiếu những đoạn văn nói về
những tương quan và thái độ của Thiên Chúa
đối với con người với nội dung hoàn
toàn khác (x. Lc 11,5; 15,3-7; 15,11-32; v.v.). Ở đây, tác giả
chỉ nhắc lại một hoàn cảnh quen thuộc
với các thính giả để rút ra những bài học
thần học. Đó là: người tín hữu,
người môn đệ hoặc người tông
đồ phải có thái độ khiêm tốn, mà không nô
lệ, ở trước nhan Ngài, nhất là đối
với những đề nghị của Ngài.
5. Bởi vì Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng
người môn đệ chỉ là một “tôi tớ” và là
tôi tớ “vô dụng”, chúng ta hiểu rằng: chu toàn các
nhiệm vụ được giao phó không nhất thiết
bảo đảm cho phần rỗi của mình; khi đã
làm tất cả những việc được giao
rồi, người môn đệ vẫn ý thức rằng
cuộc sống đang chờ mình ở bên kia thế
giới cũng là một ân huệ. Như thế, quả
thật, không có chỗ nào dành cho sự vênh vang, tự hào
tự mãn cả.
6. Đôi khi chúng ta có lối suy nghĩ y như thể
nếu chúng ta cầu nguyện, nếu chúng ta ra sức
bước theo nẻo chính đường ngay, thì Thiên Chúa
phải biết ơn chúng ta. Quả thật, Thiên Chúa vui
mừng về những cố gắng của chúng ta,
nhưng không phải vì thế mà chúng ta có thể tự hào
rằng chúng ta đã làm cho Ngài vui thích. Thiên Chúa không hề
lệ thuộc vào bất cứ điều gì chúng ta làm
cả. Ngài không cần lời cầu nguyện của chúng
ta, Ngài cũng không cần nỗ lực của chúng ta
để sống với người khác. Chính chúng ta
mới cần sống cho tương hợp với ý
nghĩa của đời sống chúng ta, để
trở thành những con người trung thực. Tuy nhiên,
chúng ta cũng biết rằng Thiên Chúa không bao giờ thua
chúng ta về sự tốt lành và quảng đại. Là
Đức Chúa, Ngài sẽ cho các tôi tớ trung thành ngồi
vào bàn ăn và phục vụ họ (Lc 12,37).
|