Thắp một ngọn đèn-
Lm. Vũ Minh Nghiễm
Barbara Varenhorst trong cuốn sách nhan
đề là Real Friends (Những người bạn chân
thật) có viết về một phụ nữ tên Erma
như sau.
Hôm đó, một người đàn bà
tên là Erma có việc đi Chicago bằng phi cơ. Cô
đến phi trường khoảng nửa tiếng
trước khi máy bay cất cánh. Làm thủ tục xong, Erma
ngồi chờ nơi phòng đợi. Trong lòng cô còn đang
bực mình vì những chuyện không vui tuần vừa
rồi. Cô lấy một cuốn sách hay ra đọc.
Nhưng rồi bỗng Erma nghe tiếng
một người đàn bà khác đã có tuổi ngồi
bên cạnh nói:
- Tôi đoán rằng tại Chicago trời
lạnh lắm.
Erma mắt không rời cuốn sách,
đáp lại cách lơ đễnh:
- Có thể lắm.
Người đàn bà có tuổi kia
tiếp tục nói. Erma tiếp tục trả lời
lại bằng những câu cụt ngủn lạnh lùng.
Thế rồi bà ta nói ra một tin
động trời.
- Tôi hiện đi theo xác chồng tôi
đem về Chicago. Anh
ấy đã chết đột ngột sau 53 năm hôn
phối.
Đến đây, quả tim Erma
nhảy lên, đập nhanh đập mạnh. Cô nhận
thức được rằng người đàn bà
đang ngồi bên cạnh mình là người đau
khổ, cần một người khác biết lắng tai
nghe, biết cảm thông, hầu bà có thể thổ lộ
tâm tình, cho vơi sự đau khổ đang đè nặng
tâm hồn bà. Bà ấy không van xin một lời khuyên
nhủ. Không van xin bạc tiền. Bà chỉ đi tìm
một người biết lắng tai nghe. Thế mà Erma
đã vô tình, làm người hoàn toàn xa lạ.
Bây giờ cô xếp sách lại, bỏ
xuống ghế, đưa hai tay cầm lấy tay bà kia, và
lắng tai nghe bà kể lể nỗi niềm đau
thương của bà. Trong khi lắng tai nghe bà kia kể
lể, Erma quên hết các vấn đề khó khăn
của mình. Cô bỗng cảm thấy tươi trẻ
lại, can đảm hơn, mạnh mẽ hơn.
Khi tiếng người nhân viên hàng không
vang lên trong máy phóng thanh, báo tin đã đến giờ
đi Chicago, Erma khoác
tay bà kia lên máy bay. Tới nơi, họ chia tay nhau, tới
chỗ ngồi của mình. Họ ngồi cách nhau vài ba hàng
ghế.
Khi Erma đang đứng bỏ
chiếc áo quàng lên hộp đựng hành lý phía trên
đầu, Erma nghe bà kia nói với người hành khách bên
cạnh bà y như đã nói với cô trước đây..
“Tôi đoán rằng ở Chicago trời
lạnh lắm...”
Nghe vậy, Erma tự nhiên thốt lên
một lời cầu nguyện: Lạy Chúa, xin Chúa ban cho
người hành khách kia ơn biết nhẫn nại và
lắng tai nghe với tất cả tấm lòng
thương yêu.
Câu
chuyện đây giống như câu truyện Chúa phán trong bài
dụ ngôn hôm nay về người phú hộ và
người ăn mày nghèo khổ tên là Ladarô. Người
giàu có đầy đủ hết mọi sự. Còn Ladarô
thì thiếu thốn hết mọi sự. Ladarô rất
cần sự giúp đỡ và chỉ cần rất ít thôi.
Nếu người phú hộ kia muốn giúp đỡ
Ladarô, thì chỉ cho anh ăn những mụn bánh từ bàn
tiệc của ông rơi xuống đất cũng
đủ. Nhưng ông không bao giờ để ý
đến Ladarô cả. Ông coi Ladarô như không có. Cách xử
trí của ông đối với Ladarô không khác gì cách xử
trí của Erma lúc ban đầu đối với
người đàn bà đau khổ trong câu chuyện nói
trên.
Cái
tội làm cho người phú hộ trong dụ ngôn hôm nay
phải chịu cực hình trong địa ngục là
tội gì? Ông không bảo đầy tớ đuổi
Ladarô ra khỏi cổng nhà của ông. Ông không đánh
đập Ladarô mỗi khi ông đi ngang qua chỗ anh
nằm. Ông không chưởi bới rủa nộp Ladarô
mỗi khi ông trông thấy anh. Vậy tội làm cho
người phú hộ phải chịu cực hình là tội
gì? - Thưa là tội ông ta coi Ladarô như không có! Tội ông
ta không phải là một tội phạm vì đã làm một
điều không được làm. Tội ông là một
tội thiếu sót. Không làm điều đáng lý ông phải
làm (sin of omission). Tội người phú hộ là tội
không lay một ngón tay để giúp đỡ một tí,
một tí thôi, người nghèo cực cần
được giúp đỡ.
Bây
giờ chúng ta hãy nhìn về chúng ta và xã hội chúng ta hôm nay.
Ai trong chúng ta mà không nhận thấy rằng câu chuyện
Ladarô đang tái hiện hằng ngày giữa chúng ta? Đang
tái hiện trong mọi tầng lớp của xã hội
chúng ta đang sống? Con người chúng ta, xã hội
chúng ta đang đặt ưu tiên của mình trên vật
chất hơn là trên con người. Tổng thống
Eisenhower trước đây có nói: “Mỗi một cái súng
được đưa ra, mỗi một chiến
hạm được hạ thủy, mỗi một
hỏa tiễn được bắn đi, xét cho cùng là
một cuộc đánh cắp của người nghèo
đói, không cơm ăn áo mặc.”
Tổng
thống John K. Kennedy còn nói mạnh hơn nữa: “Khi
người ta đặt ưu tiên của vật chất
trên con người, không những người ta hủy
hoại lớp người nghèo cực, mà còn hủy
hoại cả xã hội mình đang ở giữa. Nếu một
nước tự do mà không lo cứu vớt lớp
người nghèo, người ta cũng không thể cứu
vớt được lớp người giàu.”
Nếu
chúng ta không lưu tâm đến những kẻ túng
thiếu ở giữa chúng ta, thì không những chúng ta
hủy hoại họ, mà hủy hoại cả chính bản
thân chúng ta nữa. Nói như vậy, có những
người cũng còn cho là mơ hồ, chưa nhìn
thấy một câu trả lời cụ thể cho cá nhân
mình trong hoàn cảnh hiện tại. Vậy chúng ta có
thể trả lời cho bài học của dụ ngôn hôm nay
bằng ba cách.
Thứ
nhứt. Chúng ta xử
sự như người phú hộ trong Phúc âm hôm nay:
nhắm mắt lại trước mọi hoàn cảnh không
may mắn, trước mọi đau khổ đang
xảy đến chung quanh chúng ta.
Thứ
hai. Chúng ta không nhắm
mắt lại trước hoàn cảnh đau thương,
khỗ cực, túng thiếu đang xảy ra chung quanh. Chúng
ta lên tiếng phản đối ầm ĩ, bằng
lời nói, hoặc bằng ngòi viết. Nhưng chỉ có
bấy nhiêu thôi! Chúng ta không lay ngón tay để làm một
việc gì khác nữa cả, ngoài ra lời nói và ngòi viết.
Sau cùng, thay vì nhắm mắt lại
trước những cảnh đau thương khổ
cực, thay vì đứng nguyền rủa bóng tối do
hoàn cảnh tạo nên, chúng ta thắp lên một ngọn
đèn, và thực hành một cử chỉ cụ thể
nào đó.
Ngọn
đèn của một mình tôi xem ra mờ yếu. Nhưng
nếu ngần nầy người trong nhà thờ hôm nay,
mỗi người cùng thắp lên một ngọn đèn,
thì sẽ tạo ra một rừng ánh sáng, đuổi bóng
tối âm u ra khỏi khu vực của chúng ta.
Nếu
mỗi người con cái Chúa đều thắp lên một
ngọn đèn như vậy, thì không bao lâu ánh sáng sẽ lan
toả ra khắp nơi, trong làng mạc chúng ta sinh
sống, trong thành thị chúng ta hoạt động, torng
quốc gia chúng ta đang cư ngụ, trong toàn thế
giới. Vậy bây giờ chúng ta hãy bắt đầu
thực hành những việc nhỏ mọn, như Erma
đã làm đối với người đàn bà đau
khổ tại phi trường trong câu chuyện mở
đầu. Nghĩa là làm những gì chúng ta có thể làm.
Đây là sứ điệp của bài Tin Mừng mà
Đức Yê-su thách đố chúng ta hôm nay: “Chúng con hãy
thương yêu nhau, như Thầy đã thương yêu
chúng con.”
Khi
chúng ta xử đại lạnh lùng đối với nhau
thì mọi sự đều bế tắc hỗn loạn.
Khi chúng ta biết thương yêu lẫn nhau, thì mọi
sự thảy đếu xuôi gió thuận buồm.
|