Cuộc sống trần thế
không phải là tất cả
(Suy
niệm của Lm Phanxicô Xavie Vũ Phan Long)
Nếu con tim đã trở nên đui mù
và chai cứng vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa và
người thân cận, thì các phép lạ và các sứ
giả từ bên kia thế giới trở về cũng
chẳng giúp lay tỉnh được.
1.-
Ngữ cảnh
Tại đoạn Lc 16,14-18, tác giả
đã mô tả người Pharisêu là “vốn ham hố
tiền bạc”. Lời mô tả này chủ ý
được ghi vào cho khó nghe, bởi vì là một nhận
xét bất thường, không có chỗ nào trong TM III hay Cv
sử dụng. Đức Giêsu than trách rằng điều
răn quan trọng nhất, yêu thương người
thân cận như chính mình, đã phải hy sinh cho việc
giữ lấy của cải riêng, và lòng yêu thương
đối với chính mình, cho dù phải hy sinh người
thân cận, đã được ưa chuộng hơn – và
điều này lại rõ ràng nơi những người
Pharisêu đạo đức! Những câu nói về sự
ham hố tiền bạc dễ dàng tuôn ra từ dụ ngôn
trước đó nói về việc sử dụng của
cải cách bất chính (16,1-8) và từ những bài học
về việc lạm dụng của cải (16,9-13).
Vậy bài dụ ngôn 16,19-31 là phần nối tiếp
những nhận định lâu dài của tác giả Lc
về việc sử dụng không đúng đắn các
của cải (kể từ bài Người con hoang đàng).
Bài dụ ngôn hôm nay giúp làm sáng tỏ hoàn cảnh này.
Người Pharisêu chế nhạo Đức Giêsu khi nghe
dụ ngôn của Người đề cập đến
tiền bạc; bây giờ, bằng ngôn ngữ rõ ràng và
mạnh mẽ, Đức Giêsu biện luận về cách
sử dụng đúng đắn các của cải.
Những lời Đức Giêsu (16,15-18)
tiếp theo lời tác giả giới thiệu người
Pharisêu ở c. 14 tập trung vào những gì Đức Giêsu
cùng chia sẻ với cử tọa: hết sức tôn
trọng các giáo huấn của Cựu Ước; chỉ
có một con đường duy nhất đưa vào
Nước Trời (16,16), đó là tuân giữ các giáo
huấn của Thiên Chúa, và ở đây là giáo huấn liên
hệ đến việc sử dụng đúng đắn
các của cải. Lề Luật nói về điểm này,
sẽ không bao giờ qua đi, nhưng luôn hướng
dẫn các chọn lựa của con người (16,17).
Điều duy nhất Đức Giêsu thêm vào các giáo
huấn đáng kính của Thiên Chúa là làm sáng tỏ cách
người Do Thái hiểu Luật Môsê (x. c. 18 như
một ví dụ về cách Đức Giêsu làm sáng tỏ
Lề Luật). Người Kitô hữu, trong khi vẫn nhìn
nhận giá trị của Luật Cựu Ước,
lại sống ý muốn của Thiên Chúa theo cách hiểu
của Đức Giêsu, là Đấng Cứu thế, là
vị Hướng đạo và Đấng soi sáng mình. Vì
không có một từ hay một câu nào để nối
dụ ngôn với các câu trước, ta có thể hiểu
rằng dụ ngôn thuộc về những câu đi
trước nó.
2.-
Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai
phần:
1)
Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô (16,19-22);
2)
Cuộc đối thoại (16,23-31):
a)
Phần một: Cuộc sống dưới ánh sáng của
cái chết (cc. 23-26);
b)
Phần hai: Sứ điệp cho “năm người anh em”
và cho các môn đệ Đức Giêsu: lắng nghe Lời
Chúa (cc. 27-31).
3.- Vài
điểm chú giải
- mặc toàn … (19): enedidysketo, thì vị hoàn của
động từ endidyskô, “mặc”, cho hiểu là đây là
một hành động xảy ra thường xuyên.
- lụa là gấm vóc (19): dịch sát là “gấm tía và vải
lanh mịn”. Theo ngôn ngữ của Cựu Ước (Cn
31,22; 1 Mcb 8,14), ta hiểu ông nhà giàu sống như một
ông vua.
- Ladaro
(20): Do từ Híp-ri ’El‘âzâr, có nghĩa là “Thiên Chúa giúp
đỡ”.
- được thiên thần đem (22): Do vế sau nói về ông nhà giàu
“cũng chết, và người ta đem chôn”, tức là linh
đình và long trọng, ta hiểu anh Ladarô không
được loài người an táng, nên đã
được các nhân vật thiên quốc đem đi.
- anh Ladarô trong lòng tổ phụ (23): Đây là vị trí danh dự khi
người ta được dự tiệc đồng
bàn với Abraham tại bữa tiệc thiên sai (Lc 13,28-29; x.
Ga 13,22).
- âm phủ (23): Từ ngữ (h)adês lấy từ thế
giới Hy Lạp, để mô tả cuộc sống
của người ta sau cái chết. “Hadês” là tên của
vị thần Hy Lạp cai trị âm phủ, và
được dùng để chỉ nơi người ta
không thể nhìn thấy, do con chữ alpha có nghĩa là
thiếu mất đứng trước ngữ căn
của động từ “nhìn thấy”. Đối với
người Hy Lạp không tin có sự sống lại
từ cõi chết, dù chấp nhận có sự bất
tử, linh hồn của người chết
được mô tả là đi lang thang trong một xứ
sở không có mặt trời, trong một hình dạng
bất toàn, như một cái bóng.
- ông ta ngước mắt nhìn lên (23): Ông đang “ở dưới”,
tượng trưng cho tình trạng đau khổ, nhục
nhã và thiếu thốn mà ông không tự giải quyết
được.
- lòng tổ phụ (23): biểu tượng người
Do Thái dùng để nói về tình trạng sống rất
thân tình và rất được ao ước, khi đó hai
con người kết hợp với nhau. Công thức này
tương tự với công thức “lòng kề lòng”.
- Ladarô được an ủi (25): Thái bị động thay tên Thiên
Chúa: “Thiên Chúa an ủi” Ladarô.
- đã có một vực thẳm lớn (26): Dịch sát là “đã cắt ngang
định sẵn một vực thẳm” (NTT). Đây là
thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã
định sẵn một vực thẳm”.
- Chúng đã có Môsê và các Ngôn sứ (29): “Môsê và các ngôn sứ” là tên gọi
bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước). Tổ
phụ Abraham khẳng định rằng sứ
điệp nòng cốt của Kinh Thánh Do Thái vẫn còn là
một cẩm nang có giá trị để hướng
dẫn anh em ông nhà giàu.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô
(19-22)
Ông nhà giàu không có tên, nhưng lại
rất giàu; còn Ladarô chỉ có một sự giàu có, đó là
cái tên. Hai người không có tương quan gì với nhau
cả.
Ông nhà giàu không làm điều gì xấu
về luân lý cả; ông chưa hề từ chối Ladarô
một điều gì, vì Ladarô cũng chưa xin gì cả.
Bản văn chỉ nói rằng ông có một chương
trình sống như chương trình một ông nhà giàu khác
đã phác ra, nhưng đã không thể thực hiện
trọn vẹn vì cái chết đến sớm: “Cứ
nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã”
(Lc 12,19). Y phục thường xuyên của ông là lụa là
gấm vóc: mỗi ngày ông đều mặc “gấm tía và
vải lanh mịn”, chứ không chỉ vào một số
ngày đặc biệt. “Gấm tía” rất đắt, nên
chỉ giới thượng lưu vương giả
mới dám dùng. “Vải lanh mịn” cũng là thứ hàng
hiếm, ngay tại Rôma. Thế mà ông nhà giàu mặc mỗi
ngày! Thường mỗi gia đình có một bữa ăn
chính mỗi ngày; còn trong nhà của ông nhà giàu, bữa ăn
chính này, mỗi ngày, lại là một yến tiệc.
Chắc chắn ông nhà giàu không ăn mặc và ăn
uống sang trọng hào nhoáng như thế cho riêng ông, ông
phải có các khách mời. Ông đã sống như một
ông vua.
Các thính giả có thể khó chịu vì
bức tranh này, vì dường như “bôi bác” người
nghèo. Nhưng Đức Giêsu sắp chuyển sang vấn
đề cách thức sử dụng của cải và lý do
vì sao của cải không cứu được mà lại
tiêu diệt người chủ của. Chính bài học
hệ trọng này cho hiểu vì sao Đức Giêsu giới
thiệu quá chi tiết hình ảnh ông nhà giàu, một hình
ảnh ở mức độ nào đó đang có trong
mỗi một người, ở dạng hiện thực
hay ở dạng nguyện ước.
Thế rồi Đức Giêsu
đưa ra một hình ảnh đối ngược
tối đa với ông nhà giàu: một người nghèo
mạt. Bản văn không nói là anh này sống đúng
đắn về luân lý. Anh có một tên, “Ladarô” có nghĩa
là “Thiên Chúa giúp đỡ”, một cái tên có ý nghĩa
đối với “những người nghèo khó, tàn
tật, què quặt, đui mù” (x. Lc 14,13.21). Ladarô nghèo khó
lại mụn nhọt đầy mình. Phải chăng Thiên
Chúa sẽ giúp đỡ Ladarô qua trung gian ông nhà giàu? Anh không
thể đi lang thang đây đó mà xin ăn. Ladarô cần
có bạn bè để giúp anh tìm được thức
ăn. Họ đã bỏ anh nằm trước cổng
nhà ông nhà giàu, một vị trí mà một người nghèo
khó, tàn tật, què quặt, đui mù, người không
được mời, có thể ở gần chủ nhà
nhất. Ông chủ và các khách mời không thể nào không
biết có anh này ở ngoài cổng, và quả thật, ông
nhà giàu đã gọi tên anh khi anh đang ở trong lòng
tổ phụ Abraham.
Ladarô đói, anh thèm được
ăn những thứ thừa thãi trên bàn người giàu và
các thực khách rơi xuống. Rất có thể mấy con
chó dưới gầm bàn được hưởng
những thứ này. Mà nếu vậy, hẳn là Ladarô mong
được không phải ở giữa những thực
khách, mà là ở giữa những con chó. Chỉ có mấy con
chó hoang đến liếm ghẻ chốc của anh.
Phải chăng chúng săn sóc anh? Nếu thế, ông nhà giàu
không giúp đỡ anh bằng mấy con chó. Nhưng cũng
có thể hiểu việc mấy con chó đến liếm
mụn nhọt cho anh như là một tình trạng bị
bỏ rơi, không được ai giúp đỡ, mà còn
bị đàn vật tấn công nữa.
Bức tranh Đức Giêsu phác ra
kết thúc tại điểm này: đây là một “kết
thúc mở”. Tình trạng mâu thuẫn đã rõ. Đức
Giêsu không mô tả thêm gì; điều này có nghĩa là bao lâu
hai nhân vật trên còn sống, không có gì thay đổi
cả: mỗi người cứ tiếp tục như thế
cho đến chết. Dù sao, tác giả Lc không hề xác
định rằng ông nhà giàu xấu xa, hay là Ladarô là
điển hình của người tốt. Đấy là
những vấn đề nằm ngoài bản văn. Tác
giả chỉ mô tả cuộc sống của hai bên:
một bên thì ăn tiệc, còn bên kia thì ăn xin; một
bên thì ăn mặc sang trọng, còn bên kia thì gần như
trần truồng.đây là hai kiểu mẫu song
đối đang đứng trước mặt nhau,
nhưng không có đối thoại. Mặc dù có sự
gần kề thể lý hằng ngày, dụ ngôn lại cho
thấy sự xa cách là có thật. Đàng khác, sự
kiện họ không nói với nhau là một yếu tố
không phài không đáng kể, nhất là trong một dụ
ngôn kết thúc bằng việc kêu gọi lắng nghe
(16,29.31).
* Phần một của đối
thoại: Cuộc sống dưới ánh sáng của cái
chết (23-26)
Nhưng cái tên “Ladarô”, có nghĩa là “Thiên
Chúa giúp đỡ”, Đức Giêsu cố tình gán cho anh, là
để ta hiểu rằng cái tên của anh phù hợp
với hoàn cảnh của anh: Khi còn sống, anh đã không
được người nào giúp đỡ; sau khi
chết, anh đã được Thiên Chúa an ủi.
Đứng trước cái chết, ông
nhà giàu và anh nhà nghèo bình đẳng. Cái chết chiếu
cố đến cả hai người. Nhưng tại
điểm này, số phận của họ đảo
ngược. Bản văn không nói gì về phán xét, nhưng
chỉ ghi nhận sự đảo lộn các số
phận, đồng thời nói đến một tình
trạng bất khả truyền thông giữa hai bên.
Những gì được nói ở đây về cuộc
sống sau cái chết không phải là một mô tả chính
xác về cuộc sống ấy và không hề có ý phác ra
một địa lý của thế giới bên kia gồm
những vùng hoặc những tầng. Nếu Đức
Giêsu chọn nói về đau khổ dành cho những kẻ
tội lỗi trong cuộc sống sau cái chết,
Người thường vận dụng kinh nghiệm
của các cư dân của một thành phố qua hình
ảnh một ngọn lửa cháy mãi trên một
đống rác, liên tục cháy ngày đêm để thiêu đốt
rác rưởi của thành ấy (Mc 9,48; x. Is 66,24).
Các hình ảnh này chỉ muốn
diễn tả sự khác biệt tận căn trong thế
giới bên kia của đời sống một
người đã rất giàu có và đời sống
của một người đã hết sức nghèo túng.
Ladarô được đưa vào lòng tổ phụ Abraham.
Abraham, bạn của Thiên Chúa và tổ phụ của dân
Israel, được coi như người chủ tọa
bữa tiệc mừng trong thế giới ấy (x. Mt
8,11). Ladarô, đã từng nằm vạ vật bẩn
thỉu trước cổng và chỉ có bầy chó làm
bạn, nay nhận được một chỗ danh
dự bên cạnh tổ phụ Abraham, trong sự hiệp
thông thân tình và tin tưởng với ngài (x. Ga13,23). Còn ông
nhà giàu, trước đây, ông ăn mặc tinh tế và xa
hoa, nay chỉ có lửa bao quanh ông, khiến ông rất
đau đớn. Trước kia, ông luôn có sẵn
những thức ăn thơm ngon và thức uống ê
hề, bây giờ ông phải xin một giọt
nước. Trước đây, trong cuộc sống
trần gian, Ladarô đói khát mong ước được
ăn những thứ thừa từ bàn chủ rơi
xuống, nhưng không được; bây giờ ông nhà giàu
xin Ladarô đưa ngón tay nhúng nước rồi nhỏ cho
ông một giọt nước, mà cũng không được
nhận. Trong cuộc sống trần gian, ông đã biết
và chỉ quan tâm đến thú vui, thoải mái, sự xa hoa
và những thứ tinh tế. Với của cải của
ông, ông có thể cho phép mình có mọi sự. Nhưng cách
thức ông đã sử dụng của cải và tiêu xài
cuộc sống đã đẩy ông vào một tình cảnh
trong đó ông phải chịu đau đớn và dày vò,
nhung nhớ và nguyện ước không nguôi; chính ông tự
tách khỏi sự hiệp thông với tổ phụ Abraham
và với Thiên Chúa.
Tác giả không giải thích trong bài
dụ ngôn vì sao ông nhà giàu phải chịu đau khổ, còn
Ladarô thì thoát khỏi đau khổ. Các hoàn cảnh sau cái
chết của họ chỉ được hiểu
ngầm trong bài là xứng đáng với họ. Tổ
phụ Abraham không nói rằng vì ông nhà giàu có của cải
trên trần gian, nên bây giờ phải chịu đau
khổ; ngài chỉ muốn khẳng định rằng ông
ấy đã có của cải ở trần gian, nhưng
sự giàu có không theo ông vào âm phủ được. Chúng ta
hiểu rằng đời sống trước đây trên
mặt đất phải chịu trách nhiệm và là nguyên
nhân của những tình cảnh sau cái chết.
Lời ông nhà giàu kêu “lạy cha Abraham
(của con)” xin giúp đỡ và lời tổ phụ Abraham
nói “con (của ta)” để từ chối cho hiểu quan
hệ thân thương này vẫn không chặn
được các ngọn lửa và cơn khát nơi âm
phủ. Nhưng lời kêu cứu của ông cũng cho
hiểu là có một dây liên kết cốt thiết giữa
ông và Ladarô; mặc dù có những khác biệt lớn lao
giữa hai người, họ vẫn là anh em gần
gũi và phải yêu thương nhau. Thế nhưng bây
giờ, “giữa chúng ta đây và các con đã có một
vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua
bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên
chúng ta đây cũng không được” (c. 26), nghĩa là
không thể thay đổi phần thưởng hay hình
phạt nữa, khi mà cuộc sống đã chấm
dứt. Mối quan tâm của ông nhà giàu cho số phận
của năm người anh em sau này gợi ý là sau khi
chết, không còn có thể thay đổi được
nữa.
Chúng ta ghi nhận là không phải là Ladarô
đã lập luận để trả lời cho ông nhà
giàu, mà là tổ phụ Abraham, tức Nguồn Mạch
của Do Thái giáo. Rất hợp lý là cha của tất
cả mọi con dân Israel giải thích cho hiểu vì sao Ladarô
không thể giúp gì cho ông nhà giàu. Lý do thứ nhất: ông nhà
giàu đã có các thứ tốt lành khi còn sống ở
đời; còn Ladarô thì chỉ toàn gặp bất hạnh.
Bây giờ ông nhà giàu phải đau khổ còn Ladarô
được an ủi. Điểm nhắm trong lời
nói của tổ phụ Abraham là cung cấp lý do vì sao
đau khổ của ông nhà giàu không thể chấm dứt:
do sống trong tình trạng bị dày vò lúc này, ông phải
nhớ lại rằng ông đã có các thứ tốt lành
trong cuộc sống trần gian và nhớ là bây giờ ông
phải chịu đau khổ. Bên kia, Ladarô không bị
buộc phải từ bỏ tình trạng hạnh phúc
của anh; anh đã phải chịu đau khổ suốt
đời, nên nay anh được an ủi. Lời
của tổ phụ Abraham chỉ nhắm giải thích
một điều: không phải vì sao mỗi người
đang ở nơi họ đang ở, nhưng vì sao không
thể yêu cầu Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.
Lý do thứ hai: theo quan niệm về âm
phủ nói trên, có một sự ngăn cách không thể
vượt qua giữa cái tốt và cái xấu: “giữa
chúng ta đây và các con”, tổ phụ Abraham kể cả chính
ngài vào đó. Vậy, sự ngăn cách này do một
Đấng Khác quy định bất di bất dịch,
chứ không do bất cứ thụ tạo nào. Tình trạng
bất khả thông thương này chấm dứt mọi
tranh luận về việc Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.
* Phần hai của đối
thoại: Sứ điệp cho “năm người anh em” và
cho các môn đệ Đức Giêsu: lắng nghe Lời Chúa
(27-31)
Ông nhà giàu nhìn nhận rằng chính
lối sống của ông trước đây trên mặt
đất đã đưa ông đến tình trạng này.
Do đó ông mong muốn là anh em ông được nhắc
nhở thay đổi đời sống để
khỏi rơi vào số phận đau đớn như
ông. Rất có thể những người này đang
sống dưới một mái nhà với ông, nên ông biết
rõ lối sống của họ. Cách thức thực
hiện điều này, như ông đề nghị, là
gửi Ladarô về khuyến cáo các anh em ông về mối
nguy hiểm đáng sợ đang ở trước
mắt. Tổ phụ Abraham trả lời: “Chúng đã có
Môsê và các Ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị
đó”. “Môsê và các Ngôn sứ” là tên gọi bộ Kinh Thánh.
Như thế, muốn tránh được lộ trình
đưa đến số phận đau đớn thì
hãy lắng nghe Lời Chúa. Từ đó, chúng ta hiểu
rằng trong khi còn sống, ông nhà giàu đã không lắng
nghe, tức không vâng theo “Môsê và các Ngôn sứ”, Lời Chúa,
với luật căn bản là mến Chúa yêu người.
Nhờ trung gian của Kinh Thánh, Thiên Chúa
truyền đạt cho chúng ta biết ý muốn của
Ngài, Ngài ban cho chúng ta những quy luật sống đúng
đắn để đưa chúng ta đến đích. Ý
muốn của Thiên Chúa không hề khó tuân giữ, như
sách Đệ nhị luật đã khẳng định:
“Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay
đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay
anh em. Mệnh lệnh đó không ở trên trời […].
Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển […].
Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em,
ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực
hành” (Đnl 30,11-14). Trong Kinh Thánh, có chỗ nói rõ ràng về
trách nhiệm xã hội đối với những
người nghèo. Nay ta có thể giải thích rõ ràng nhất
bức tranh Đức Giêsu đã vẽ ra trong bốn câu
đầu của dụ ngôn: Ông nhà giàu đã bỏ qua ý
muốn của Thiên Chúa, không quan tâm đến Thiên Chúa,
đã chỉ tìm kiếm tiện nghi và thú vui cho riêng mình. Do
đó, ông đã phải đi đến đau khổ
hiện tại.
Ông nhà giàu không phủ nhận tính
đúng đắn của lời tổ phụ Abraham nói,
nhưng ông nghĩ rằng anh em ông sẽ vâng theo hơn,
nếu có người, như Ladarô, từ cõi chết
trở về truyền đạt sứ điệp Môsê.
Chắc chắn Ladarô không có gì hơn Môsê mà nói; giá trị
của anh nằm ở chỗ anh có thể làm chứng
về thế giới âm phủ. Nhưng câu trả lời
của tổ phụ Abraham là một lời bình luận
về trái tim con người. Nếu người ta không
muốn vâng nghe Môsê và các ngôn sứ, thì người từ
cõi chết trở về cũng chẳng lay chuyển được
lòng dạ của họ. Lời tổ phụ Abraham phân
tích một con tim sống trong tội rất có thế giá:
bài dụ ngôn nhắm điều này, nên đã kết thúc
ở đây với nhận xét của tổ phụ Abraham.
Thật khó mà đưa trái tim con người đến
chỗ hoán cải!
+ Kết
luận
Trong bài dụ ngôn, Đức Giêsu cho
thấy một cuộc đảo lộn tình thế và
nguyên nhân của cuộc đảo lộn này. Những gì
Người loan báo ở đây là nhắm ban cho các “anh em”
(c. 28) ông nhà giàu một lời giáo huấn và khuyến cáo,
để họ khỏi mất linh hồn vì những thú
vui do của cải giàu sang, trái lại biết nghiêm túc tìm
thánh ý Thiên Chúa. Các lời này của Đức Giêsu cũng
là một an ủi cho người nghèo, vì tuy trên trần
gian họ phải sống một số kiếp đau
thương nhưng họ vẫn có thề hoàn toàn cậy
trông vào sự nhân lành của Thiên Chúa.
Đức Giêsu mạnh mẽ loan báo
rằng cuộc sống trần gian không phải là tất
cả và các hoàn cảnh hiện thời trong cuộc
đời không đơn giản được lặp
lại sau cái chết. Ai không nhìn sang bên kia cuộc sống
trần thế và niềm vui sống, thì sau cái chết
sẽ phải gặp một chuyện kinh ngạc đau
đớn. Đối với mọi người, giàu hay
nghèo, cần phải quy hướng cuộc sống mình
về ý muốn của Thiên Chúa. Đây là con
đường duy nhất để tránh được
diệt vong và đạt được sự hiệp
thông vĩnh cửu với Thiên Chúa.
Còn có một hướng suy nghĩ khác:
sau khoảng năm mươi năm Đức Giêsu đã
ban dụ ngôn này, phải chăng tác giả Lc muốn ám
chỉ rằng người ta cũng sẽ không nghe
Đức Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi
chết? Sách Công vụ đã nêu lên nhiều bằng
chứng về sự “không nghe” này. Nếu hiểu như
thế, bài dụ ngôn cũng có sức quy chiếu về
Đức Giêsu.
5.-
Gợi ý suy niệm
1. Hai người ở cách nhau có ít
bước, thế mà dường như không gặp nhau. Ladarô cứ việc nằm vất
vưởng đau bệnh trước cửa; ông nhà giàu
biết anh, nhưng sống như không hề có Ladarô. Khi
người ta tin tưởng vào tiện nghi, vào của
cải, vào “phát triển”, người ta trở thành đui
mù, không thấy người khác với các nhu cầu
của họ. Sau này, ông nhà giàu không hề biện minh: Tôi
không gây rắc rối gì cho Ladarô. Tôi tôn trọng quyền
tự do của anh. Anh ta đâu có hề xin tôi điều
gì! Ông biết ông đã sai khi không sống những
điều Lời Chúa dạy.
2. Ông nhà giàu có tất cả mọi
sự trên đời và dường như ông đã
đạt được mục tiêu của cuộc
đời. Nhưng chính
cái chết cho hiểu rằng cuộc sống trần gian
không phải là tất cả. Phải sống cuộc
sống trần gian, phải sử dụng của cải
vật chất thế nào, để sau khi chết,
người ta đạt được cuộc sống
viên mãn. Dĩ nhiên Đức Giêsu không muốn nói
đến một vài sai lỗi nhất thời;
Người dạy chúng ta về giá trị của chọn
lựa căn bản: có những chọn lựa trong
cuộc sống hôm nay rất hệ trọng, bởi vì liên
hệ đến cuộc sống vĩnh cửu sau cái
chết.
3. Ông nhà giàu chết, và phải chịu
cực hình. Điều
này không có nghĩa là chỉ nguyên vì ông có của cải trong
cuộc sống trần gian, mà dứt khoát ông bị hành
hạ trong thế giới bên kia. Nếu ông bị đau
đớn là vì ông đã không biết sử dụng của
cải cho khôn khéo, như đã được nói
đến ở cc. 9,14-15. Hôm nay chúng ta cũng
được mời gọi xét lại xem chúng ta có
chăng khả năng thấy nơi mỗi con
người và nơi các nhóm người và các dân tộc,
một Ladarô nghèo khó đang ở trước cửa nhà
chúng ta. Chúng ta có nhận ra được những nhu
cầu của họ chăng? Chúng ta đã và còn sẽ làm
gì cho họ?
4. Sau khi chết, không còn có thể thay
đổi được số phận nữa. Chính vì thế Đức Giêsu đã ra
sức thúc bách người ta “thay đổi ngay bây
giờ”. Không có một giáo huấn nào của Tân Ước
cho thấy là ta còn có thể hoán cải sau khi chết.
Lời Chúa có đó để hướng dẫn chúng ta
đạt được cứu cánh của cuộc
đời chúng ta. Muốn lắng nghe Lời Chúa, ta
phải có con tim sẵn sàng và rộng mở. Nếu con tim
đã trở nên đui mù và chai cứng vì ích kỷ, không
quan tâm đến Thiên Chúa và người thân cận, thì các
phép lạ và các sứ giả từ bên kia thế giới
trở về cũng chẳng giúp lay tỉnh
được.
5. Điều mà bài dụ ngôn lên án,
đó là không biết nhận ra tình trạng của bản
thân để thay đổi. Có một cuộc đời để đáp lại
các tiếng gọi và có một lúc cuối cùng, vẫn còn có
thể làm được điều gì đó. Người
gian phi tại đồi Sọ đã có sự khôn ngoan
đúng lúc. Trong một thoáng chốc, anh đã biết
sử dụng Lời như một cái kềm để
nhổ các cây đinh của cuộc sống gian ác của
anh và nắm bắt được thiên đàng: “Giêsu
ơi, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,43).
|