GƯƠNG TỐT CỦA NGƯỜI XẤU
Đây là một
dụ ngôn rất khó cắt nghĩa. Câu chuyện
bao gồm những tên lưu manh mà người ta có thể
gặp ở bất cứ nơi đâu. Tên quản gia này là một tên lưu manh. Hắn vốn là một nô lệ, tuy vậy
hắn được giao trách nhiệm điều hành gia
sản của chủ. Tại Palestine có nhiều
địa chủ hay đi vắng, nên tất cả công việc
của ông ta được trao trong tay
người quản gia của ông. Tên quản gia trong câu
chuyện này đã ăn cắp khéo léo.
Các con nợ cũng là những tên lưu manh. Chắc
chắn món nợ của họ là tiền thuế
đất. Thuế đất ở Palestine
thường được trả cho chủ đất
không bằng tiền mà là hiện vật, thường là
một phần hoa lợi của đám đất cho thuê. Quản gia này
biết rằng hắn sẽ mất chức quản gia,
vì thế nảy ra một sáng kiến. Hắn
ghi sổ một cách gian lận để các con nợ
được trả ít hơn cho chủ. Điều này có hai công hiệu. Thứ nhất, các con nợ sẽ phải mang
ơn hắn. Thứ hai, còn có hiệu
lực hơn, là hắn làm cho con nợ cũng liên luỵ
về hành động gian dối của hắn, và nếu
lâm vào tình trạng bế tắc thì hắn ở vào một
thế mạnh để thực hiện những vụ
tống tiền. Chính chủ hắn
cũng là một thứ lưu manh nữa, bởi vì, thay vì
khó chịu về hành động này, ông ta lại khen nó
thông minh. Điều khó giải thích
dụ ngôn này là bởi Luca đã gồm vào đó bốn bài
học khác nhau.
1.
Câu 8 là bài học con cái ở
đời này tỏ ra khôn khéo với đời hơn con
cái sự sáng. Điều đó có nghĩa là nếu các Kitô
hữu cũng hăng hái khéo léo trên đường hành
đạo như người đời khéo tìm của
cải tiền bạc thì tốt biết bao. Nếu người
ta chú tâm đến linh hồn cũng như việc buôn bán
làm ăn thì họ đã tốt hơn
nhiều. Nhưng thực ra người ta luôn luôn
đổ nhiều thì giờ, tiền bạc, công sức
vào những lạc thú, vui chơi đời này gấp 20
lần hơn vào các công việc Hội Thánh của mình.
Đạo của chúng ta chỉ trở thành thực
tại và hữu hiệu khi nào chúng ta đầu tư vào
đó nhiều thì giờ, sức lực như vào các
việc thế tục.
2.
Câu 9 là bài học của cải
vật chất nên dùng để giữ tình bạn.
Điều này có thể làm trong hai cách:
3.
Làm việc đó cho đời sau. Các
rapbi Do Thái có câu “kẻ giầu giúp kẻ nghèo ở
đời này, nhưng kẻ nghèo giúp kẻ giầu trong
đời sau”. Khi chú giải chuyện người
giầu ngu dại xây kho lẫm lớn
hơn để tích của. Ambrose có nói: “Lòng của
người nghèo, nhà của bà goá, miệng của trẻ
nhỏ là những kho vựa còn mãi đời đời”.
Người Do Thái tin rằng của bố thì cho
người nghèo được ghi vào trương mục
đời sau của kẻ cho. Sự giầu có thật
của con người không tuỳ những gì mình nắm
giữ, nhưng ở những gì mình cho đi.
4.
Làm việc đó cho đời này.
Người ta có thể dùng của cải một cách ích
kỷ, hoặc có thể dùng để giúp cho đời
sống dễ chịu hơn, không những cho chính mình, mà
còn cho bạn bè và những người chung
quanh mình nữa. Biết bao nhà học giả đời
đời mang ơn một người nào đó đã dùng
tiền bạc mình để giúp học bổng cho mình theo đuổi việc học. Biết bao
người đã mang ơn một người bạn giàu
có đã tài trợ cho họ trong cơn túng cực một
cách thực tế. Tự bản chất, của cải
không phải là tội lỗi nhưng đòi trách nhiệm
thực hiện chức năng của nó và người nào
dùng của cải để giúp đỡ tha nhân túng cực,
kẻ ấy đã làm trong trách nhiệm của mình.
5.
Câu 10,11 là bài học
về cách thi hành việc nhỏ, qua đó, sẽ chứng
tỏ người đó có xứng đáng hay không xứng
đáng để trao phó những việc lớn.
Điều này đúng trong các việc đời này, không ai
được cất nhắc lên vị trí cao hơn
nếu lúc ở địa vị thấp, người
đó đã không chứng tỏ được khả
năng và lòng ngay thẳng. Nhưng Chúa Giêsu đã áp dụng
nguyên tắc đó vào đời sau. Ngài phán “ở thế
gian các ngươi chịu trách nhiệm về những
của cải không thực sự thuộc về mình. Các
ngươi không thể mang theho mình những của cải
đó khi chết. Những của cải đó chỉ cho
các ngươi vay mượn. Các ngươi là
người quản lý của đó, vì theo
bản chất, những của đó không là của các
ngươi vĩnh viễn. Nhưng trái lại, ở trên
trời, các ngươi sẽ được những
của cải thuộc về các ngươi một cách
thiết thực, vĩnh viễn và bất di dịch.
Những của mà các ngươi sẽ được trên
trời lại tuỳ theo cách các
ngươi dùng của cải dưới đất.
Của cải mà các ngươi sẽ được làm
tài sản riêng tuỳ ở cách các ngươi sử
dụng những của cải mà các ngươi chỉ làm
quản lý”.
6.
Câu 13 đặt ra luật: không
đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ. Chủ
chiếm hữu nô lệ cách tuyệt đối. Ngày nay thì
đầy tớ hay công nhân có thể làm hai công việc
một cách dễ dàng, và có thể làm việc cho hai chủ.
Anh ta có thể đảm nhận một công tác trong
giờ bình thường và một công tác khác trong giờ
rảnh rỗi. Tỉ dụ có người làm thư ký ban ngày và làm ca sĩ vào ban tối.
Nhiều người làm thêm để kiếm tiền hay
làm theo sở thích trong những giờ
tự do. Thế nhưng một nô lệ không có giờ
tự do, mọi giây phút trong ngày, tất cả sức
lực của anh ta thuộc về chủ. Anh ta không có thì
giờ riêng nào. Cũng vậy, phục vụ Chúa không
thể nào là một công việc bán thời gian hay công
việc của giờ rảnh rỗi. Ai đã chọn
phục vụ Chúa thì tất cả thì giờ, tất
cả sức lực của người ấy đều
thuộc về Chúa trọn vẹn. Chúa là chủ tuyệt
đối trên mọi người chủ, chúng ta hoặc
thuộc trọn vẹn về Chúa hay không thuộc về
Ngài chút nào.
|