Vác thập giá mình mà
đi theo Đức Giêsu- JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Muốn làm môn đệ Chúa, phải
từ bỏ tất cả (kể cả cha mẹ, và
những người thân yêu nhất). Từ bỏ như
thế thì làm sao sống được trên đời? Làm
sao tránh được tiếng bất hiếu, vô tình vô
nghĩa? Cần phải hiểu hai chữ «từ bỏ» theo nghĩa nào?
2. Tại sao Đức Giêsu lại yêu
cầu những người theo Ngài
phải lượng sức mình: có từ bỏ tất
cả mọi sự được thì hãy theo, không thì thôi?
3. Không lượng sức mình mà cứ theo Chúa, thì đã sao? Có tai
hại gì đâu? Khối người theo
Chúa có phải từ bỏ gì đâu, họ còn
được thêm là đằng khác?
Suy tư gợi ý:
1.
Muốn làm môn đệ Chúa, phải từ bỏ tất
cả
Bài
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói lên một cách quả
quyết, rõ ràng và dứt khoát là: muốn theo
Ngài, muốn làm môn đệ Ngài, phải sẵn sàng từ
bỏ tất cả: người, vật, ý riêng, thậm
chí những người thân yêu nhất như cha mẹ,
vợ con, và ngay cả bản thân hay mạng sống mình
nữa. Sự rõ ràng và dứt khoát ấy trở nên rất
rõ nét nhờ hai dụ ngôn về một người
muốn xây nhà và một ông vua muốn chiến đấu.
Muốn xây nhà thì phải dự tính xem có đủ tiền
không, kẻo đang xây dở dang mà hết tiền, thì
sẽ không có nhà ở! Hai dụ ngôn này nhấn mạnh
rằng nếu có ý định theo Chúa,
thì cần phải lượng sức mình trước, xem
mình có thể từ bỏ được như Chúa đòi
hỏi không. Nếu không được, thì hãy từ
bỏ ý định theo Chúa, kẻo sau đó
bị dở dang «thầy không ra thầy, thợ không ra
thợ», lỡ việc, lỡ cả cuộc đời,
và có thể lỡ cả đời sau.
2. Cần
phải hiểu «từ bỏ» theo hai
nghĩa
Khi
Đức Giêsu đòi hỏi những người theo Ngài phải từ bỏ, điều
ấy không có nghĩa là những kẻ theo Ngài luôn luôn phải
rời xa cha mẹ, vợ con, và sống như
người không có gì. Hiểu theo
nghĩa đen như thế không hẳn là sai, nhưng
chỉ đúng với ơn gọi của một số ít
người. Từ bỏ ở đây nên hiểu theo nghĩa tinh thần nhiều hơn.
Nghĩa là người theo Chúa cần
phải có tinh thần từ bỏ. Có tinh thần từ
bỏ là luôn luôn coi Chúa và những việc của Chúa là quan
trọng hơn tất cả mọi sự khác, nên sẵn
sàng hy sinh những cái không quan trọng cho cái quan trọng
khi thực tế đòi buộc như vậy. Từ
bỏ không phải là không quí những điều mình
từ bỏ, mà là không quí bằng một cái khác quí hơn,
nên sẵn sàng hy sinh cái quí nhỏ cho cái quí to. Mạng
sống, cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa, ruộng
vườn… đều là những thứ mà người theo Chúa phải quí trọng, thậm chí
rất quí, nhưng đối với người theo Chúa,
thì phải coi tất cả những thứ đáng quí
ấy không quí bằng việc thực hiện Nước
Thiên Chúa.
Và khi đã có tinh thần từ bỏ,
thì tinh thần ấy sẽ được thể hiện
thành hay hành động từ bỏ. Nếu những hành
động từ bỏ không phát xuất từ tinh
thần từ bỏ thì không có giá trị lắm. Tuy nhiên, nếu tinh thần từ bỏ mà không
được thể hiện thành những hành
động từ bỏ cụ thể, thì chắc chắn
đó không phải là tinh thần từ bỏ đích
thực.
3.
Phải lượng sức mình khi theo
Chúa
Có thể Chúa không đòi hỏi tất
cả mọi người phải có tinh thần từ
bỏ như thế.
Nhưng Ngài đòi hỏi những ai theo
Ngài phải có tinh thần ấy. Vì thế, trong hai dụ
ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa yêu cầu những ai theo Ngài phải lượng sức mình xem
mình có thể có được tinh thần từ bỏ
như vậy không. Nếu không có, thì đừng theo Ngài, Ngài không trách phạt những
người bình thường nếu họ không có tinh
thần ấy. Nhưng Ngài sẽ trách phạt những ai theo Ngài mà lại không có tinh thần từ
bỏ ấy. Chính vì thế, mà cần
phải lượng sức mình kẻo có hại cho sự
phát triển hay vinh quang của Nước Chúa, đồng
thời cho chính bản thân mình.
Rất
tiếc là tinh thần từ bỏ này chưa
được đặt nặng đúng mức nơi
những người mang danh là theo Chúa.
Trong nhiều Giáo Hội địa phương, những
người mang danh theo Chúa lại được nhiều
đặc quyền đặc lợi hơn những
người bình thường (được hết
sức kính trọng vì danh nghĩa là người theo Chúa
chứ không vì tài đức bản thân, dễ dàng có
quyền hành, địa vị, chức tước,
tiền bạc hơn người bình thường…) Vì
thế, có biết bao người theo Chúa vì những
động lực trần tục ấy. Theo Chúa, thay vì
từ bỏ hay mất đi nhiều thứ mình đang
có, thì lại có thêm hay chiếm hữu được
nhiều thứ mình chưa có. Do đó, với tinh thần
chiếm hữu thay vì từ bỏ, những người
mang danh theo Chúa ấy không thể thực hiện
được những bổn phận hay trách nhiệm mà
những người theo Chúa phải gánh vác trong những
hoàn cảnh cụ thể mà Nước Chúa đòi buộc
(chẳng hạn phải tranh đấu cho người
nghèo, cho người bị áp bức, chống lại
sự ác, bất công…) Họ không dám từ bỏ, không dám
dấn thân, không dám hy sinh trong những việc đòi
hỏi họ phải chấp nhận nguy hiểm
đến mạng sống, đến sự an toàn bản
thân, đến danh dự, đến quyền lợi… Đương nhiên họ vẫn có thể hy sinh
trong những việc nhỏ, miễn sự hy sinh ấy
đừng lớn hơn cái lợi trần gian họ
đạt được. Cũng như một
người đi buôn sẵn sàng hy sinh tiền bạc, công
sức để thu vào một cái
lợi lớn hơn.
Những
người theo Chúa kiểu ấy
sẽ rất bỡ ngỡ vào ngày sau hết, khi Chúa
bảo họ: «Ta không biết các anh từ đâu
đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất
cả những quân làm điều bất chính!»
(Lc 13,27). Và lúc ấy họ sẽ lên
tiếng thắc mắc: «Chúng tôi đã từng
được ăn uống trước mặt ngài, và
ngài cũng đã từng giảng dạy trên các
đường phố của chúng tôi» (Lc 13,26).
Hoặc «Nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói
tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm
nhiều phép lạ đó sao?» (Mt 7,22). Chính vì thấy trước viễn
tượng ấy, mà Đức Giêsu đã yêu cầu
những ai muốn theo Chúa phải
lượng sức mình. Nếu không thể từ bỏ
mọi sự được như thế (nên hiểu theo nghĩa tinh thần), thì nên rút lui sớm
kẻo vừa hại cho Nước Chúa vừa hại cho
phần rỗi của mình.
4. Một
đề nghị
Trong
các Giáo Hội Á châu, việc Giáo Hội khuyến khích giáo
dân tôn kính và dành nhiều đặc quyền đặc
lợi cho những người theo Chúa có rất nhiều
điều hay, nên làm, nhưng thiết tưởng cũng
nên ý thức và quan tâm tới mặt trái của nó
để hành xử cho khôn ngoan. Sự tôn trọng của
giáo dân và những đặc quyền đặc lợi mà
Giáo Hội dành cho những người theo
Chúa có thể khiến cho những Ki-tô hữu không có tinh
thần siêu nhiên, sẽ theo Chúa không phải vì Chúa, vì Giáo
Hội hay các linh hồn, mà vì một động lực
trần tục.
Thật
vậy, nếu những ai mang danh theo Chúa mà lại
được tôn kính, trọng vọng một cách mặc
nhiên bất chấp họ có xứng đáng hay không;
nếu những điều kiện sinh sống của
họ cũng mặc nhiên trở nên dễ dàng gấp bội
so với những giáo dân bình thường chỉ vì họ
mang danh hiệu đó mà thôi, thì việc mang danh theo Chúa
sẽ trở nên rất hấp dẫn đối với
những ai thiếu tài đức nhưng lại ham
muốn trèo cao và muốn có điều kiện sống
dễ dàng hơn mọi người mà đỡ vất
vả. Nếu những điều kiện để
được mang danh là theo Chúa lại
dễ dàng hơn những điều kiện để
mang những danh hiệu khác ngoài đời, thì số
người «muốn theo Chúa» với động lực
trần tục sẽ đông lên gấp bội.
Điều ấy sẽ ảnh hưởng rất
xấu đến chất lượng của những
người mang danh theo Chúa. Nếu
những người theo Chúa vì
động lực trần tục chiếm đa số,
thì thật là tai hại cho Giáo Hội. Họ
sẽ không thể dấn thân thật sự cho Giáo Hội
khi Giáo Hội cần đến sự dấn thân ấy.
Giáo Hội sẽ đầy gương
xấu đến từ giới được coi là
ưu tú nhất, và bị đình trệ không phát triển
được. Và những người muốn theo Chúa thật sự (chiếm thiểu
số) sẽ nản lòng và sẽ chẳng hoạt
động hữu hiệu được, thậm chí
sẽ không muốn vào, mà lại muốn ra khỏi hàng
ngũ ấy để … khỏi bị thiên hạ đánh
giá kiểu «cá mè một lứa»!
Vì thế,
những người hữu trách trong Giáo Hội nên tìm cách
tránh cho Giáo Hội tình trạng đồ giả lan tràn như ngoài đời. Làm đồ
giả vừa thực hiện dễ dàng lại vừa
kiếm được nhiều lợi nhuận hơn làm
đồ thật, nên thị trường tràn lan đồ giả. Đồ giả càng
tinh vi thì bên ngoài càng giống đồ
thật, thậm chí nhiều loại đồ giả còn
«có vẻ thật» hơn cả đồ thật. Đương nhiên chất lượng của
đồ giả thì luôn luôn kém cỏi. Nếu không có
biện pháp xử lý khôn ngoan, thì trong Giáo Hội cũng có
thể lan tràn những người có
vẻ theo Chúa, nghĩa là theo Chúa một cách «hữu danh vô
thực», không có tinh thần «từ bỏ» làm bảo
chứng.
Cầu
nguyện
Lạy
Cha, xin ban cho Giáo Hội ngày càng tăng số người
muốn theo Cha thật sự, nghĩa là
những người sẵn sàng chấp nhận tinh
thần từ bỏ mà Cha đòi hỏi và mong muốn. Xin
cho chúng con dù là giáo dân hay giáo sỹ, cũng có tinh thần
từ bỏ đích thực để xây dựng
Nước Thiên Chúa tại trần gian, đặc biệt
trên quê hương con. Amen.
|