Sự khôn ngoan của Tin
Mừng
(Suy niệm của
Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan)
Chúa
Nhật 23 thường niên: Sách Khôn ngoan 9,13-18; thư
gởi Philemon 9-17; Lc 14,25-33. Các bài đọc và bài tin
Mừng CN 23 TN xoay quanh sự khôn ngoan.
I- Sách Khôn
Ngoan nêu một thực tế: tại sao con người
“mất khôn” và làm sao có thể trở nên khôn?
Con
người mất khôn vì: “ Thân xác dễ hư nát này
khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất
này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm
bề”. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng nhắc
các môn đệ: “Hãy canh thức và cầu nguyện kẻo
sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái,
nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41).
Thân
phận con người là như thế. Bao nhiêu lần
chúng ta tự đấm ngực sau khi đã làm một
chuyện đáng tiếc: “Sao lúc đó mình không nghĩ ra…
Sao lúc đó mình ngu thế!”… Đó là cái giới hạn
thứ nhất.
Cái
giới hạn thứ hai càng khó vượt qua: “Những
gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà hình dung
nổi, những điều vừa tầm tay, đã
phải nhọc công mới khám phá được, thì
những gì thuộc thượng giới, có ai do thấu
nổi hay chăng?” Chúa Giêsu cũng nói với ông
Nicôđêmô: “Nếu tôi nói với các ông về những
chuyện dưới đất mà các ông còn không tin,thì
giả như tôi nói nói với các ông về những
chuyện trên trời, làm sao các ông tin được?”(Ga
3,12). Câu trả lời rất rõ ràng và dứt khóat: “Ý
định của Chúa, nào ai bíết được,
nếu tự chốn cao vời, Ngài chẳng ban
Đức khôn Ngoan, chẳng gởi thần khí thánh? Chính vì
thế mà đường lối người phàm
được sửa lại cho thẳng, cũng vì
thế mà con người được dạy cho bíết
những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ
đức Khôn Ngoan mà được cứu độ.”
Các
tông đồ đã được Chúa Giêsu tuyển
chọn để ở với Chúa và được Chúa
đích thân dạy dỗ suốt ba năm trời, mà càng
học càng ngu, khiến Chúa phải than: “Anh em chưa
hiểu, chưa thấu sao? Lòng anh em chai đá thế! Anh
em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư? Anh em không
nhớ sao” (x. Mc 8,17-18). Rút cục thì phải chờ
đến khi Chúa đã vào trong vinh quang Phục Sinh, Chúa
mới giải được cái huyệt ngu cho các ông:
“Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh
Thánh” (Lc 24,45).
Tin
Mừng Gioan nói rõ hơn: “Đấng Bảo Trợ là Thánh
Thần, Chúa Cha sẽ phái đến nhân danh Thầy,
Đấng đó sẽ dạy cho anh em mọi điều
và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều
Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). “Người sẽ
dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”
(16,13).Vậy ra Thánh Thần là “ngón tay”của Thiên Chúa mà Chúa
Giêsu Vinh Quang dùng để giải huyệt ngu và giúp trí
nhớ cho các môn đệ.
Môn
đệ thuộc thế hệ thứ hai, tức là các
tín hữu do các Tông Đồ dạy dỗ cũng vẫn
còn bị “điểm huyệt” cho hóa ngu. Trong bức
thư đầu tiên gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và là
bản văn xưa nhất trong sách Tân Ước, thánh
Phao lô diễn tả cách thức ngài dạy dỗ tín
hữu: “Khi ở giữa anh em, chúng tôi đã cư xử
thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp
ủ con thơ… Chúng tôi đã cư xử với mỗi
người trong anh em như cha với con; chúng tôi khuyên
nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng
với Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi anh em vào
Nước và vào vinh quang của Người” (I Th 2,7.11-12).
Cuối
thư, ngài khuyên họ: “Anh em đừng dập tắt
Thần Khí. Chớ coi thường ơn làm ngôn sứ. Hãy
cân nhắc mọi sự, điều tốt hãy giữ
lấy, mọi thứ xấu hãy lánh xa” (5,18-22).
Trong
bức thư thứ hai gởi cho cùng một cộng
đoàn này, thánh Phaolô đã phải cảnh giác họ:
“Về ngày Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô quang lâm và
tập hợp chúng ta về với Người, chúng tôi xin
anh em điều này: anh em đừng vội để cho
tinh thần dao động, cũng đừng hỏang
sợ vì một mặc khải của thần khí, một
lời nói hay một bức thư được coi
như là do chúng tôi và làm cho anh em tưởng là ngày của
Chúa đã đến. Đừng để ai lừa
dối anh em bất cứ cách nào” (2Th 2,1-3). Như vậy
là sớm có những ngón tay khác tìm cách điểm huyệt
làm cho ngu! Sư phụ của cái ngón điểm huyệt
làm cho ngu vẫn là kẻ thù truyền kiếp: Xa-tan. Trong
thư thứ hai gởi tín hữu Corintô, thành Phaolô vạch
mặt chỉ tên nó: “… kẻo chúng ta bị Xa-tan
lường gạt, vì không phải chúng ta không biết ý
đồ của nó”(2Cr 2,11); “Lạ gì đâu, chính Xa-tan
cũng giả dạng thiên thần” (11,14).
Trong
thư gởi tín hữu Ga-lát, [là thư thứ hai, về
thời gian, sau thư I Th], thánh Phaolô quở trách họ
cũng giống Chúa Giêsu quở trách các tông đồ:
“Hỡi những người Ga-lat ngu xuẩn, ai đã mê
hoặc anh em… Anh em ngu xuẩn như thế sao?” (Gl 3,1.3).
Rồi trong phần khuyên bảo, thánh Phaolô nhắc lại
điều sách Khôn Ngoan đã nói: “Thật thế, tính xác
thịt đam mê những điều trái ngược
với Thần Khí… khiến anh em không làm được
những điều anh em muốn” (5,17). Cái nọc
độc của Xa-tan thấm sâu đến nỗi
người ta lừa dối chính mình: “Nếu ai
tưởng mình là cái gì mà chẳng là cái gì cả, thì
lừa gạt chính mình” (6,3). Nó có thể trở thành
một thứ bệnh dịch: “Sẽ đến thời
người ta không còn chịu nghe giáo huấn lành mạnh,
nhưng theo những đam mê của chính mình mà kiếm
hết thầy này đến thầy nọ, bởi
ngứa ngáy muốn nghe. Họ sẽ ngỏanh tai đi
không nghe sự thật, nhưng hướng về
những chuyện hoang đường” (2Tm 4,3-4).
Cuối
cùng thánh Phaolô còn gặp phải một “Anh Đê-ma đã
bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian” (2Tm 4,10). Xa-tan có
trăm nghìn ngón để điểm vào cái huỵêt làm cho
hóa ngu. Nó có nội gián ngay trong lòng ta, nó có đồng minh và
tay chân bao vây ta. Thánh Phaolô bíêt thế, nên từ trong tù, ngài
đã viết cho tín hữu Ephêsô: “Tôi quỳ gối
trước mặt Chúa Cha… Nguyện xin Chúa ban cho anh em
được mạnh mẽ nhờ Thần Khí của
Người… để cùng các thánh, anh em đủ sức
thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu,
và nhận biết lòng yêu mến của Đức Kitô” (Ep
3,14-19).
II. Bài
đọc thư Philêmon cho chúng ta thấy thánh Phaolô đã
vận dụng sự Khôn Ngoan của tin Mừng để
giải quyết một vấn đề xã hội của
thời ngài: vần đề nô lệ.
Philêmon
là một tín hữu giàu có, nhiệt thành và quảng
đại. Nhà ông trở thành nơi hội họp của
cộng đoàn Hội Thánh. Thánh Phaolô gọi ông là
“người bạn yêu quý và cộng sự viên”. Không
hiểu sao một người nô lệ trong nhà ông Philêmon,
tên là Ônêximô, lại bỏ trốn. Nhưng anh ta rất
khôn, tìm đến gặp thánh Phaolô đang ở trong tù. Và
đối với thánh Phaolô anh ta đã trở thành
“đứa con tôi sinh ra trong cảnh xiềng xích…nó là
ruột thịt của tôi”. Anh ta trở nên người
hữu ích đến nỗi thánh Phaolô ngỏ ý: “Tôi
muốn giữ nó ở bên tôi, để nó thay anh mà
phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin
Mừng. Nhưng tôi không muốn làm gì mà không có sự
ưng thuận của anh…”.
Tương
quan giữa Ônêximô, người nô lệ đã bỏ
trốn, và Philêmon, ông chủ, bây giờ thế nào? “Có
lẽ nó đã rời xa anh một thời gian, chính là
để anh vĩnh viễn được lại nó, không
phải như một người nô lệ nữa,
nhưng còn hơn một người nô lệ, như
một người anh em yêu quý: đặc bíệt yêu quý
đối với tôi, phương chi đối với anh
lại còn hơn bíêt mấy, xét cả về tình
người lẫn tình anh em trong Chúa”. Sự biến
đổi tuyệt vời: người nô lệ trở
thành người anh em trong Chúa của ông chủ.
Cách
mạng kiểu Mac-xít thay đổi bằng cách lật
ngược trật tự xã hội, đổi vai:
chủ xuống làm nô lệ, nô lệ lên làm chủ. Ở
miền Bắc Việt Nam thời kỳ 1954-1975, còn đi
tới khẩu hiệu: “thằng trời kia xuống làm
dân, để cho nông hội đứng lên làm trời”,
bởi vì nông hội có thể “thay trời làm mưa” và có
thể “nghiêng đồng tát nước ra sông”. Cách
mạng triệt để tới thế là cùng!
Sự
Khôn Ngoan của Tin Mừng thay đổi tận bên trong
lòng con người để nâng nô lệ lên làm anh em
của chủ, “cả về tình người lẫn tình
anh em trong Chúa”. Người nô lệ vô dụng bỏ
trốn, nay trở thành “người hữu ích cho cả
anh lẫn tôi”. Tin Mừng không chủ trương lật
đổ, nhưng biến đổi các tương quan
từ bên trong: “Thưa anh em, mỗi người đang
ở địa vị nào khi được kêu gọi thì
cứ ở địa vị đó. Bạn là nô lệ khi
được kêu gọi ư? Chớ bận tâm, dù có
thể được tự do, tốt hơn hãy lợi
dụng thân phận nô lệ. Thật thế, người
nô lệ mà được Chúa kêu gọi, thì là người
được Chúa giải phóng. Cũng vậy,
người tự do mà được kêu gọi, thì là nô
lệ của Đức Kitô. Thiên Chúa đã trả giá
đắt mà chuộc lấy anh em” (I Cr 7,20-23).
Sự
thay đổi diễn ra trong Đức Kitô: “Tất
cả anh em đã chịu phép rửa để kết
hợp với Đức Kitô, thì đều mặc lấy
Đức Kitô. Không còn Do thái hay Hy Lạp, không còn nô lệ
hay tự do, không còn nam hay nữ; vì tất cả anh
chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,27-28). Xã hội
tốt đẹp hơn và bình đẳng tuyệt
đối, vì nô lệ trở thành “nô lệ của
Đức Kitô, tận tâm thi hành ý Thiên Chúa. Hãy vui lòng
phục vụ, như thể phục vụ Chúa, chứ
không phải người ta. Người làm chủ cũng
hãy đối xử như thế với nô lệ.
Đừng dọa nạt nữa: anh em bíêt rằng cả
họ, cả anh em cùng có chung một Ông Chủ trên trời
và Người không thiên vị ai”. (Ep 6,6-9).
III.
Sự Khôn Ngoan Chúa dạy trong bài Tin Mừng.
Sách
Tin Mừng Luca nói “dai” nhất và “triệt để”
nhất về những điều kiện để làm
môn đệ.
Nói “dai”
nhất:
Sau
lần thứ nhất Chúa Giêsu báo trước cuộc
Thương Khó, Lc không kể gì về phản ứng
của các tông đồ, mà để cho Chúa Giêsu tuyên
bố liền điều kiện làm môn đệ. Sau
lần thứ hai, Chúa ân cần sửa dạy cách hành
xử “chống thập giá” của các tông đồ,
rồi “cương quyết đi lên Giêrusalem” (9,51).
Vừa lên đường thì lại xảy ra chuyện hai
anh em Giacôbê và Gioan muốn làm môn đệ Elia, khiến
lửa từ trời xuống đột người ta,
rồi chuyện ba người lần lượt xin theo
Chúa hoặc được gọi theo Chúa, và
được nghe những điều kiện một cách
cụ thể.
Đến
chương 14 thì Lc lại kể những lời Chúa nói
về điều kiện làm môn đệ.
Sau
lần thứ ba loan báo cuộc thương khó thì chỉ
thấy “một sự im lặng đáng sợ” từ phía
các môn đệ.
Tới
bữa Tiệc Vượt Qua cuối cùng, sau khi Chúa đã
lập bí tích Thánh Thể, trao Mình và Máu làm của ăn
của uống và tuyên bố “bàn tay kẻ nộp Thầy
đang cùng đặt trên bàn với Thầy”, thì Lc kể”
“các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong các ông được
coi là người lớn nhất”, khiến Chúa Giêsu
phải lặp lại một cách quyết liệt hơn
bài học đã dạy sau lần thứ hai và đặt
chính mình Chúa làm gương mẫu: “Thầy đây, Thầy
ở giữa anh em như một người phục
vụ” (Lc 22,21-27àso với Ga 13).
Lc nói
“triệt để” nhất:
lần
thứ nhất nói về điều kiện làm môn
đệ: “Ai muốn đi theo tôi, phải từ bỏ
chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo…” (9,23-26).
Lần
thứ hai” “Ai đến với tôi mà không… thì không thể
làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá
mình và đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi
(14,26-27).
Tình
triệt để hiện rõ trước tiên ở cụm
từ “thập giá hàng ngày”, chứ không phải lâu lâu
gặp một lần! Cách phát biểu lần thứ hai thì
như một “định lý đảo” trong tóan học, so
với lần thứ nhất là “định lý thuận”.
Trong tóan học, khi một định lý thuận có
định lý đảo thì không có cách nào thóat
được!
Chúa
nói với mọi người: Cái phiền là Chúa không nói
riêng với các môn đệ vẫn theo Chúa hay với các
vị trong nhóm Mười Hai, mà nói với mọi
người (9,23 và 14,25). Vậy thì điều kiện này
không chỉ dành cho ông cha, bà phước hay ông thầy
khổ tu, mà dành cho mọi người.
Làm
sao Chúa có thể đòi mọi người như thế
được? Ở lần thứ nhất, Chúa giải
thích: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống
mình, thì sẽ mất…”. Rõ ràng là khi bị đặt trong
một hoàn cảnh phải chọn lựa quyết
liệt, thì phải chọn Chúa hơn chính mạng sống
mình, hơn mọi của cải trần gian, hơn danh
vọng. Đó là trường hợp các thánh tử
đạo, tổ tiên chúng ta và những người tử
đạo đương thời…
Nhưng
Lc Chúa nói đến “thập giá hàng ngày” kia mà! Sách Tin
Mừng này đặc biệt thích “hàng ngày” và “hôm nay”. Thiên
thần báo tin cho các người chăn chiên: “Hôm nay,
một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em”
(2,11). Chúa Giêsu trong Hội Đường Nadaret: “Hôm nay
đã ứng nghiệm lời kinh thánh tai quý vị vừa
nghe” (4,21). Khi Chúa vào nhà ông Da-kêu: “Hôm nay, ơn cứu
độ đã đến cho nhà này” (19,9). Và trên thập
giá, Chúa đáp lời người trộm cướp kêu
xin: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên
thiên đàng”.
Trong
kinh Lạy Cha, “Xin cha cho chúng con ngày nào có lương
thực ngày ấy” (11,3). Ngày nào cũng là “Hôm nay” của
ơn cứu độ, ngày nào cũng cần lương
thực ngày ấy. Vì thế mà thập giá là nơi treo
ơn cứu độ cũng hiện diện hàng ngày
như lương thực. “Thập giá hàng ngày” trở nên
khó hiểu vì chúng ta thường hỉểu thập giá là
cái gì đau khổ lắm, nên chỉ khi nào gặp
chuyện đau khổ lắm mới đem lời
“thập giá” ra an ủi nhau!
Trong
lời Chúa tuyên bố, chúng ta có thể thấy “từ
bỏ chính mình” là nói một cách trừu tượng, “vác
thập giá mình hàng ngày” là kiểu nói bằng hình ảnh.
Ở thời Chúa Giêsu hai chữ thập giá gợi lên cái gì
thì ai cũng biết, và cảnh người bị treo trên
thập giá không phải là họa hiếm. Có lẽ
những người nghe Chúa cũng đã từng thấy
cảnh đó rồi. Bị treo lên thập giá thì chẳng
còn gì cả, trần truồng trước con mắt
mọi người, ai đi qua cũng có thể phỉ
báng, chim trời xuống mổ hay muỗi cắn cũng
không đuổi được nữa. Một
người bị kết án tử hình đã vác lấy
thập giá của mình mà đi thì không còn gì là của mình
nữa rồi. Như vậy hình ảnh “vác thập giá mình
hàng ngày” diễn tả trọn vẹn nhất sự
từ bỏ, giống như Chúa Giêsu (x. Pl 2,5-11). Chính
lời giáo huấn trong bữa Tiệc Vượt Qua
cuối cùng cho chúng ta hiểu vác thập gia hàng ngày là
đem bản thân và những gì mình có ra phục vụ anh
chị em.
Cái
khôn của Tin Mừng là “bỏ con săn sắt, bắt
con cá rô”, bỏ cái giới hạn để
được cái vô hạn, bỏ cái mau qua để
được cái vĩnh cửu. Bỏ bóng bắt mồi
chứ không bỏ mồi bắt bóng! Có nhiều cách
bỏ. Trong Tin Mừng Lc có các môn đệ “bỏ mọi
sự mà đi theo Chúa” (5,11), lại có các phụ nữ
giầu có ôm hết của cải mà đi theo Chúa: “Các bà
này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ
Đức Giêsu và các môn đệ” (8,3). Có ông Da-kêu vừa
được Chúa gọi và xin cho vào trọ ở nhà ông,
ông đã thưa: “Thưa Ngài, đây phân nửa gia tài
của tôi, tôi cho người nghèo”(19,8). Có ông Giuse Arimathê
dùng uy tín của mình để đơn thân đi gặp
Philatô xin xác Chúa Giêsu và chôn trong ngôi mộ mới (23,59-53).
Trong
sách Công Vụ và các thư của thánh Phaolô, chúng ta thấy
nhiều người như ông Philêmon, biến nhà mình thành
nơi hội họp cho cộng đoàn tín hữu. Cặp
vợ chồng Pơ-rit-ki-la và A-qui-la liên kết với
thánh Phaolô phục vụ các cộng đoàn ở Corintô,
Ephesô, Rôma. Quả thật điều kiện làm môn
đệ áp dụng cho mọi người, mọi bậc
sống. Làm môn đệ của Chúa không phải là một
nếp sống dành riêng cho một số người,
nhưng cho mọi người. Ai cũng được
mời gọi làm môn đệ của Chúa cả.
Cái
trớ trêu của cuộc đời là có những
người khôn nửa vời: từ bỏ mọi sự
để vào tu viện nhưng vẫn dễ dàng “quên”
một món: chính mình. Có khi tu đến hết đời
cũng vẫn còn ôm theo chính mình. Vì thế chẳng bao
giờ thấy mình hạnh phúc.
Trong
chuyện “Bao Công xử án”, có chuyện một ông trong hoàng
tộc bị kết tội mưu phản và bị chém
đầu. Nhưng tòa án có ba con dao khác nhau: con dao có
đầu con chó để chém dân đen (Cẩu
đầu trảm), con dao có đầu con hổ
để chém quan chức (Hổ đầu trảm) và con
dao có đầu con rồng để chém người hoàng
tộc (Long đầu trảm). Đáng lẽ theo đúng
tội thì phải giáng xuống hàng dân đen. Nhưng Bao
Công nể mặt hoàng tộc, ra lệnh “Hổ đầu
trảm”. Ông hoàng đòi “Phải xử ta bằng Long
đầu trảm”! Bao Công ra lệnh “Cẩu đầu
trảm”! Đúng là “cà cuống chết đến đít
còn cay”.
Ngày
nay trong các nước nghèo của châu Á, châu Phi, bên cạnh
số người thật lòng đáp lại tiếng Chúa
gọi, cũng có những kẻ “khôn ngược”: đó
là những người chẳng có gì để bỏ, ngòai
“chính mình”, nhưng lại ôm theo vào chủng viện, vào tu
viện với cái ước mơ “vinh thân phì gia”, “một
người làm quan cả họ được nhờ”. Thật
đáng báo động vì nguy hiểm cho tương lai
của Giáo Hội.
Thế
là đảo lộn Tin Mừng! Thay vì lột bỏ
hết để theo Chúa thì lại cùng chia áo sống
của Chúa với “quân dữ”, lợi dụng tài sản
của Giáo Hội, lợi dụng lòng tốt của giáo
dân, của ân nhân trong và ngoài nước… Giáo Hội tại
các nước giàu đã chịu bao nhiêu thiệt thòi, có khi
phá sản vì những gương xấu của linh
mục, tu sĩ. Giáo Hội tại các nước nghèo không
cẩn thận thì lại “nuôi ong tay áo”, tới lúc nào nó
đốt cho rồi bay đi thì hối không kịp.
Phần
cuối bài Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy tiếp sự khôn
ngoan của Tin Mừng. Chúa kể hai dụ ngôn về khôn
ngoan ở đời là phải biết tình tóan. Rồi
chuyển qua sự khôn ngoan của Tin Mừng: “Cũng
vậy, ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì
không thể làm môn đệ tôi”. Lại một định
lý tóan học! Nhưng sao lại “cũng vậy”? Hai thí
dụ đều là phải biết tính tóan, áp dụng vào
con đường làm môn đệ thì lại không có tính
toán mà chỉ có “trọn gói”!
“Cũng
vậy” nghĩa là giống nhau. Giống nhau ở chỗ
nào đây? Giống nhau ở chỗ hai bên đều là khôn
cả”
Khôn ở đời
là phải bíêt tính tóan,
khôn của Tin
Mừng là không tính tóan.
Tuy
Chúa Giêsu học nghề thợ mộc, quen đo
đạc: đo cuộc sống cũng lấy “khủyu
tay” (Lc 12,12,27), nhưng đến khi nói về điều
kiện để theo Chúa thì Chúa xóa hết các động
từ “cân, đo, đong, đếm”, chỉ bíêt “trọn
gói”.
Chúa
khôn thiệt. Không cân, đo, đong, đếm thì không chia
chác được. Chúa cũng không cân, đo, đong,
đếm từ khi làm người cho đến khi trút
hơi trên thánh giá: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay
Cha”.
Xin Chúa cho con một tí cái khôn của Chúa
đi, con sẽ hạnh phúc suốt đời và muôn
đời.
|