NHỜ MẸ
Một bà qúy tộc
da đen, nươc Ethiopia,
Phi Châu. Sau 25 năm theo Tin lành, nhờ Đức Mẹ đã tìm ra chính đạo và gặp được
Chúa Giêsu. Trên tạp chí Nữ Vương Maria [Maria, Regina] số 8-9 phat hành 1961. Chính bà đã tường
thuật như sau:
Tôi chào đời
năm 1899 ở Thaba Bosiu, tiểu bang Basuto. Ba má tôi thuộc bộ lạc nỗi tiếng Griffith ở Phi Châu. Năm
19 tuổi, tôi nhập giáo hội Tin lành, và 25 năm liên tiêp sau đó, tôi là một giáo
đồ trung kiên của giáo hội Tin lành.
Ngày
3.8.1940, chồng tôi qua đời khi mới 48 tuổi. Chiếu theo luật địa phương, khi chồng
qua đời, thì tôi tự động làm chủ và toàn quyền trên điạ hạt Ramabanta. Trong cuộc
chung sống, chúng tôi được 3 đứa con: 2 gái, 1 trai. Chẳng may 2 cháu gái chêt
sớm, chỉ còn lại cháu trai. Tôi gửi cháu học ở trường Tin lành tại Morija.
Một hôm đi học
về, nó bât thình lình làm tôi xao xuyến: nó xin phep bỏ đạo Tin lành và xin gia
nhập giáo hội Công giáo. Tôi cương quyêt đáp lại: - Không được! Không được!
Ròng rã suôt
một năm trời, tôi vẫn cương quyêt giữ vững lập trường. Nhưng sau đó, chẳng hiểu
sao, tôi thấy thương con trai tôi qúa, tôi đổi ý và chìu theo ươc nguyện của nó.
Ở khu vực
Ramabanta, có một công chức cùng làm việc với tôi. Ông là một người Công giáo. Ông
thich thảo luận, bàn cãi với tôi về nhiều vấn đề tôn giáo. Những cuộc bàn cãi
hay thào luận ấy, nói chung làm tôi khoan khoái, hài lòng, vì học biêt thêm nhiều
điều. Nhưng tôi cũng thành thật phê phán, nhận định những quan điểm và giải
thich của ông về việc sùng kính Đức Mẹ Maria, về luyện ngục, về sự cầu xin cac
Thánh, về sự tôn kính cac thánh tich…nên đôi lần tôi đã có những lời phê phán cứng
cỏi, những cử chỉ it lịch sự, khiến một hôm ông đầy vẻ buồn bã, đến gặp tôi,
xin lỗi, và nói sẽ không bàn bạc hay thảo luận gì về tôn giáo nữa.. Tôi hơi ngạc
nhiên, thấy trong mình xao xuyến, mât bình an tâm hồn..Tôi xin ông vui lòng cứ
tiêp tục, đừng bỏ giở, vì cac cuộc thảo luận về tôn giáo, rât hữu ich cho tôi,
và đã có ảnh hưởng mạnh mẽ nơi tôi.
Cũng trong
thời gian này, tôi nhận được một cuốn sach nhỏ, với nhan đề, “40 câu hỏi và 40
lời đáp”, do giáo hội Tin lành ấn hành và gửi tặng. Tôi đọc và cũng thấy hay
hay, nhưng cũng là một trở ngại cho vần đề thảo luận giữa tôi và ông công chức
Công giáo.
Một hôm, tôi
nói khi gặp lại ông ta:
- Xin thành
thực thưa với ông, tôi không thich Công giáo cho lắm, tuy tôi vẫn thán phục
cach giáo dục giới trẻ của giáo hội Công giáo.
Trong khu vực
tôi ở, dân chúng đàm đạo rât nhiều về cach giáo hội Công giáo giáo dục, hướng dẫn
mọi người, nhât là giới trẻ, để ai nấy sống tôt lành và có kỷ luật trong gia đình,
cũng như trong xã hội. Một lần, chính tôi đã viêt thư cho linh mục Jalbert thuộc
Hội Truyền Giáo Công Giáo ở Tlali, bày tỏ với ngài nguyện vọng tha thiêt của tôi
là cần phải để ý đến giới trẻ, dạy họ cả môn đạo, lẫn môn đời, nhât là dạy họ đi
sâu vào vấn đề tôn giáo. Linh mục Jalbert đã hồi âm thư tôi và tỏ ra rât vui mừng,
thán phục.
Lại một chuyện
bât ngờ: Một buổi chiều nọ, một linh mục Thừa sai đi ngang qua khu vực tôi ở, một
khu vực toàn tòng Tin lành, và muốn tìm một chổ nghỉ qua đêm. Tôi mau mắn đón
tiêp ngài. Hôm sau, trươc khi lên đường tiếp tục cuộc hành trình, ngài vui vẻ cám
ơn và tặng tôi cuốn : “Giải Thich Kinh Tin Kính” của linh mục Lebreton. Tôi vừa
đọc cuốn sách đó, liền thấy cả một trời mới đât mới mở ra trươc mặt tôi. Tôi đọc,
rồi đọc, rồi lại đọc mà không biêt mệt hoặc thấy chán. It lâu sau, linh mục ấy
lại gửi cho tôi cuốn “Gương Chúa Giêsu” và cuốn “Lịch sử Giáo Hội”. Tôi cũng đọc
đi, đọc lại hai cuốn này mà không thấy chán. Từ đó, tôi thấy trong mình một sự
thay đổi khac thường. Lòng tôi bừng bừng như sôi lên, như muốn tìm tòi khám phá
một chân lý sẽ làm tôi toại nguyện.
Thế rồi chiều
Thứ bảy 2.10.1943 tôi lấy Kinh Thánh ra đọc vì thấy lòng mình giao động. Tôi thầm
thì cầu Trời cho mình mở đúng chổ, mình đang cần đến. Cầm cuốn Kinh Thánh tay hơi
run, tôi mở đúng đoạn thứ nhât Phúc Âm thánh Luca. Tôi băt đầu đọc, rồi đọc. Càng
đọc, tôi càng thấy mình xôn xao, thấm thiá. Khi đọc đến chổ sứ thần nói với Đức
Mẹ “Kính chào Đấng đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà..” Những lời này làm tôi sửng
sôt, hân hoan như chưa từng bao giờ cảm thấy. Tôi tự nói với mình:
- Qua lời sứ
thần, Thiên Chúa chào kính và đề cao một phụ nữ diễm phúc tuyệt vời như vậy, mà
sao giáo hội Tin lành của tôi coi thường, chẳng thấy nói đến, hoặc đề cao gì cả?!
Tâm trí tôi
xao xuyến trước khám phá mới mẻ này. Tôi đọc lại lần nữa, rồi một lần nữa chương
1, Phúc Âm thánh Luca. Vừa đọc, vừa cảm thấy thấm thiá, toàn thân giao động, tôi
liền qùy xuống cúi đầu hôn đât, rồi xin Chúa tha lỗi vì cho đến lúc ấy, tôi đã
chẳng nhận biêt và yêu mến, tôn vinh Người Phụ Nữ diễm phúc, Đấng mà Thiên Chúa
đã phái sứ thần đến kính chào, tôn vinh và đề cao đặc biệt như thế.
Thế rồi tôi
nghĩ: không biêt bạn bè thân thuộc và những người cùng đạo Tin lành với tôi sẽ nghĩ gì,
nói và phê phán ra sao, khi họ biêt những nhận định và quan niệm mới mẻ của tôi
về vấn đề tôn giáo? Nhưng tôi lại nghĩ: cho dù họ có phê bình găt gao, hoặc phản
đối cach nào đi nữa, cũng chẳng đáng kể trươc sự đáng buồn là bao năm qua tôi lơ
là, không nhận biêt và tôn kính Đức Maria, Đấng diễm phúc tuyệt vời như vậy. Suốt
đêm đó, tôi thao thức không sao ngủ được, tôi chỉ mong trời mau sáng để hân
hoan chia sẻ với bât cứ ai, cả Tin lành lẫn Công giáo, những tâm tình mới mẻ tôi
vừa khám phá ra.
Sáng ngày
3.10.1943 rồi cũng đến. Lại một sự trùng hợp lạ lùng: hôm đó tôi có trách nhiệm
điều hành buổi cầu nguyện ở nhà thờ Tin lành, nhưng thật đáng tiêc, vì suôt đêm
truóc, tôi thao thưc không ngủ, nên sáng hôm đó tôi mệt lử, hầu không còn sưc
chỗi dậy. Tôi cứ nằm lỳ tại nhà. Cac tín hữu đã lũ lượt đến nhà thờ, rồi tự động
giật chuông. Tôi nghe tiếng ồn ào nên cố gắng đi ra, xin lỗi cộng đoàn về sự
thiếu sot của tôi, rồi cố gắng đọc cho họ nghe một đoạn Kinh Thánh, nhưng không
còn đủ sức để giải thich đoạn Kinh Thánh vừa đọc, nhât là không nói gì về những
khám phá mới của tôi. Tôi xin một tín hữu thay tôi điều khiển buổi cầu nguyện,
còn tôi xin về nhà nghỉ ngơi, dưỡng sức. Về tới nhà, suôt ngày tôi chỉ âm thầm
than thở: “Kính chào Đấng đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà..”
Rồi một ngày
nữa qua đi. Hôm sau, 4.10.1943, là Thứ hai trong tuần, một người Công giáo đến
thăm tôi và đem cho tôi vài cuốn sach đạo. Tôi xin anh ta cùng đi với tôi đến
nhà thờ Công giáo ở Tlali vào Chủ nhật tới, để xin ghi tên học giáo lý Công giáo.
Linh mục ở đó tiêp đón chúng tôi rât thân tình vui vẻ. Ngài còn củng cố tinh thần
tôi, khi nói:
- Giáo hội nào
tôn vinh, yêu mến Mẹ Chúa Giêsu với tât cả tâm tình con cái, thì đó là giáo hội
chân thật, đáng cho chúng ta gia nhập.
Trươc sự hiện
diện đông đảo của cac tín hữu Công giáo ở Tlati, tôi được nhận vào số tân tòng, chuẩn bị học giáo lý và chịu
phep Rửa Tội. Liên tiêp 2 năm sau đó, cac Chủ nhật và Thứ tư, tôi đều đến Tlati
học giáo lý. Ngày
24.5.1946 là ngày vui mừng trọng đại, đáng muôn đời ghi nhớ của tôi: ngày tôi
chịp phep Rửa Tội và chính thức gia nhập Giáo hội Công giáo. Đức ông Bonhomme, đại
diện Đức Khâm Sứ Toà Thánh, đã chủ sự nghi lễ Rửa Tội và đặt tên Thánh cho tôi
là “Maria Fatima”. Tôi sung sướng được mang tên thánh danh Maria. Lại nữa ngày
hồng phúc đó, không phải chỉ có một mình tôi, mà còn một số bà con thân thuộc và
cac nhân viên làm việc dưới quyền tôi, cùng với 75 người lớn khac cũng được Rửa
Tội và gia nhập Giáo hội Công giáo.
“Maria
Fatima” nghiã là Đức Mẹ Fatima. Được mang danh thánh Mẹ Maria, mà lại Mẹ Fatima danh tiếng, thật là
một vinh hạnh và vinh dự lớn lao cho tôi. Tôi liền nghĩ đến việc phải xây một đền
thánh dâng kính Đức Mẹ ngay tại bộ lạc của tôi. Cach này hay cach khac, chăc chắn sẽ không thiếu những khó
khăn trở ngại. Nhưng tôi để ý đến một điạ điểm thuận tiện cho đặt một cây Thánh
Giá tại đó, là nơi sẽ xây cât một đền thánh dâng kính Đức Mẹ.
Ngày
19.8.1946 các nghi lễ tôn giáo được cữ hành lần đầu tiên tại đền thánh này. Có
khoảng 4000 người tham dự, trong đó có Nữ Quân Vương tiểu bang Basuto và nhiều
chức săc liên hệ. Chính chổ tôi đã đặt cây Thánh Giá nói trên, một bàn thờ tạm
thời được dựng lên, và Đức ông Bonhomme đã dâng thánh lễ. Vì thánh lễ đầu tiên
kính Đức Mẹ Fatima, tôi tin chăc Chúa và Đức Mẹ sẽ ban xuống muôn ơn bây giờ và
sau này. Ngay chiều hôm đó, có 25 người lớn xin ghi tên tòng giáo. Quả là một dấu
chỉ, một điềm báo tôt lành cho tương lai. Tôi tin tưởng và ươc mong rằng, nhờ đền
thánh dâng kính Đức Mẹ, Chúa và Đức Mẹ sẽ chuc phuc và thuc đẩy đồng bào khăp nơi,
nhât là tại bang Busuto, tìm ra chính lộ: Qua Mẹ, nhờ Mẹ tìm ra giáo hội chân
chính và tìm thấy Chúa Giêsu.
Mai Thành
|