“Người
nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ
nhất mà ngồi” -- Suy
niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Nội
dung bài Tin Mừng tuần trước khẳng định
nếu muốn vào Nước Thiên Chúa, ta phải phấn
đấu đi qua cửa hẹp mà vào. Tỉ dụ
thực tiễn này chuẩn bị đưa ta đến
một thái độ cần thiết để ta
được thuộc về vương quốc ấy,
đó là sự khiêm nhượng. “Phàm ai tôn mình lên sẽ
bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ
được tôn lên” (Lc 14,11). Để nói lên bài học
khiêm nhượng, Chúa Giêsu lợi dụng ngay một hoàn
cảnh sống trong xã hội: khung cảnh khách dự
tiệc lựa chỗ trọng vọng nhất mà ngồi.
1. “Người
nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ
nhất mà ngồi”
Không
phải mọi người Pharisêu đều là kẻ thù
của Chúa, điển hình là ông thủ lãnh nhóm Pharisêu trong
câu truyện hôm nay đã mời Chúa Giêsu đến dùng
bữa tại nhà ông chắc phải là một người
bạn của Chúa. Bữa ăn đông người, vì có
Chúa là thượng khách. Quang cảnh nhộn nhịp
của bữa tiệc cũng không che nổi hình ảnh
nhiều người đến dự tiệc đã dành
chỗ ăn trên ngồi trốc, một thái độ
không thể chấp nhận đối với những
người được mời đến dự
tiệc Nước Trời.
Khách
được mời đến dự tiệc
cưới là do lòng tốt của người mời,
chứ không phải họ có quyền muốn đến là
đến. Do đó, được mời đến là
một ân huệ khách nhận được từ
người mời và mục đích họ đến là
để đáp lại ân huệ của người
mời chứ không phải để tìm vinh dự chỗ
cao trọng cho mình. Việc sắp xếp chỗ ngồi
hoàn toàn do người mời, không phải do đòi hỏi
của khách dự tiệc. Một ngày kia, anh em ông Giacôbê và
Gioan đến xin Chúa Giêsu cho các ông được ngồi
hai bên tả hữu của Chúa, Người đã trả
lời: “Chén Thầy uống, anh em cũng sẽ uống;
phép rửa Thầy chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn
việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy
không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã dọn sẵn cho
ai thì kẻ ấy được” (Mc 10,39-40).
Cũng
vậy, Thiên Chúa Cha là chủ tiệc cưới
Nước Trời và Chúa Giêsu là chàng rể, còn toàn thể
nhân loại là khách được mời. Khi ta đáp
lời mời cứu độ của Chúa, đến gia
nhập vào Vương quốc của Người,
điều kiện trên hết ta phải có là có lòng khiêm
nhượng. Khiêm nhượng để nhận biết
đây là một ân huệ vô cùng lớn lao Chúa ban cho ta.
Nếu không khiêm nhượng, ta sẽ lầm tưởng
mình xứng đáng được mời vào và sẽ coi
thường ân huệ mà không hết lòng hết sức làm
bất cứ gì để đền đáp ân huệ
ấy. Lãnh nhận ơn cứu độ là để cho
mình được biến đổi, như cục
đất sét mặc cho bàn tay thợ gốm uốn
nắn. Vì thế lời đầu tiên Chúa Giêsu rao
giảng khi Người khai mở Triều Đại Thiên
Chúa là: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15),
hoặc: “Thầy bảo thật anh em: Ai không đón
nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì
sẽ chẳng được vào” (Mc 10,15). Làm sao sám
hối và đón nhận ơn cứu độ như
trẻ em được, nếu ta không có lòng khiêm nhường?
2. “Phàm ai
tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình
xuống sẽ được tôn lên”
Châm
ngôn người xưa nói về cách xử sự khôn ngoan
của người được mời đi ăn
cưới là hãy chọn chỗ thấp để
được chủ mời lên chỗ cao hơn. Nhưng
Chúa Giêsu không dạy ta làm điều ấy, mà Người
chỉ mượn hình ảnh người khách
được chủ tiệc mời ngồi lên cỗ
trên và người khách bị mời xuống cỗ
dưới để nói lên một chân lý: phàm ai tôn mình lên
sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống
sẽ được tôn lên.
Thực
vậy, trước mặt Chúa ta có là gì đâu. Tác giả
Thánh Vịnh đã nhận thức thân phận mình:
“Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao
Chúa đã an bài, thì con người là chi mà Chúa cần
nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?”
(Tv 8,4-5). Vậy mà Ađam và Evà những tưởng mình là
quan trọng, còn muốn được như Thiên Chúa nên
đã bất tuân mệnh lệnh Người. Thế là
đang được ở trong Vườn địa
đàng bị đuổi ra và thân phận trở nên
khốn nạn và đau khổ. “Ai tôn mình lên sẽ bị
hạ xuống”.
Tuy
nhiên trong kế hoạch cứu độ Thiên Chúa muốn
phục hồi thân phận làm con cái cho A-đam bằng
một nguyên lý ngược lại: ai hạ mình xuống
sẽ được tôn lên. Vậy để thực
hiện kế hoạch theo nguyên lý này, Thiên Chúa đã sai Con
Một xuống trần gian. Chúa Kitô, Con Một Thiên Chúa,
đã hạ mình xuống làm người (Ga 1:14) và nhận lấy thân phận tôi
đòi và vâng phục Thiên Chúa hoàn toàn đến nỗi
bằng lòng chịu chết trên thập giá. Chính nhờ
hạ mình và khiêm nhượng tuyệt đối, Chúa Kitô
đã được Thiên Chúa siêu tôn (Pl 2,7-9).
Chúa
Kitô đã vạch sẵn con đường cứu
độ để những ai theo Người và tin vào
Người thì sẽ không phải hư mất đời
đời. Nhiều người Do-thái đã không tin vào Chúa
Kitô, nhưng hãnh diện vì có Lề Luật và tin rằng
việc giữ Lề Luật sẽ cứu độ
họ. Họ đặt việc giữ Lề Luật lên
trên việc sống theo Tin Mừng của Chúa Kitô cho nên
họ sẽ bị hạ xuống, nghĩa là không
được cứu độ. Trái lại, dân ngoại
đã khiêm nhượng đón nhận Tin Mừng và đáp
lại lời gọi của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã nói
với người Do-thái về thực trạng này: “Anh em
phải là những người đầu tiên
được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh
em khước từ lời ấy, và tự coi mình không
xứng đáng hưởng sự sống đời
đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại...”
(Cv 13:46).
Não
trạng của người Do-thái vẫn còn nằm trong
nhiều người Công giáo hôm nay. Họ nghĩ rằng
họ mang danh là Công giáo thì thế nào cũng tốt hơn
người không có đạo. Có những người Công
giáo khác thì cho rằng họ làm những việc đạo
đức trong giáo xứ, như làm thừa tác viên cho
rước lễ, đem Mình Thánh Chúa cho người già
cả, điều khiển ca đoàn... thì chắc chắn
họ là những người đạo đức hơn
những người khác. Đúng là một cách “tôn mình lên”
thật kín đáo và nguy hiểm.
3. “Khi
đãi khách, hãy mời những người nghèo khó”
Chỉ
một bữa ăn cũng đủ là đề tài
để Chúa dạy nhiều bài học. Bài học cho
những kẻ được mời là hãy khiêm
nhượng nhìn nhận việc mình được
mời là một ân huệ. Nhưng cũng thêm một bài
học cho chủ nhà là người mời. Tuy Chúa Giêsu kêu
gọi chủ nhà hãy tỏ lòng hào hiệp đối
với kẻ nghèo khó, nhưng Người cũng mở
cho ta thấy một khía cạnh khác của bữa tiệc
Nước Trời. Được mời gọi lãnh
nhận ơn cứu độ và đáp trả không
chỉ là việc cá nhân, nhưng mang chiều kích cộng
đồng. Nếu chính ta đã được Thiên Chúa
mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ thì ta
cũng phải chia sẻ ơn cứu độ ấy
với nhau. Mỗi Kitô hữu phải là người
đãi tiệc, giúp đem ơn cứu độ
đến với những anh chị em nghèo khó, tức là
những người đang cần được cứu
độ.
Ta có
trách nhiệm đối với phần rỗi của anh
chị em, nhất là đối với những
người ta có trách nhiệm. Linh mục là người
đãi tiệc. Cha mẹ cũng là những người
đãi tiệc. Thầy cô dạy giáo lý cho các em cũng
đóng vai trò đãi tiệc. Triều Đại Thiên Chúa là
thời gian Người đãi tiệc. “Ngày ấy, trên núi
này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân
một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc
rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh
chế” (Is 25:6). Ta tiếp tay với Thiên Chúa để giúp
cho bữa tiệc cứu độ càng thêm đông,
bằng cách kêu mời anh chị em đến. Ta làm công
việc ấy khi ta cho họ thấy cuộc sống
của ta đang được ơn cứu độ
biến đổi và ta đang sống như con cái Thiên
Chúa.
4. Suy
nghĩ và cầu nguyện
Được
Chúa mời gọi đến dự tiệc cánh chung, tôi
đã đáp lại như thế nào? Từ chối vì
bận rộn? Lần lữa nói với Chúa để ít nữa
sẽ lo lắng phần hồn? Khiêm tốn và vui mừng
đến để thi hành ý Chúa muốn cứu độ
tôi?
Có khi
nào tôi vỗ ngực cho mình là người Công giáo tốt
không? Việc “tôn mình lên” thường biểu lộ
bằng những cách nào nơi tôi? Lời nói? Thái độ
khinh người? Thích so sánh hơn thiệt?
Nếu
tôi là bậc làm cha mẹ, tôi nghĩ gì khi nghe người
bạn phàn nàn về con cái rồi kết luận: “Thôi,
kệ xác nó. Nó lớn rồi, có linh hồn thì phải lo mà
giữ!”?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên
đơn sơ bé nhỏ, nhờ
đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ
thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong
đời con.
Sống giữa một thế giới
đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con
đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời
con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu
thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp
với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu
khổ đau. A-men.” (Trích
RABBOUNI, lời nguyện 14)
|