Thiên Chúa của mọi dân tộc
Con người vốn có tính ích kỷ,
chỉ nghĩ đến mình, đến gia đình, làng
xóm, dân tộc hay quốc gia mình, nên cũng hình dung ra
những vị thần thánh ích kỷ không kém.
Mỗi làng có vị thần làng
riêng, mỗi quốc gia cũng có thần riêng. Thần của làng nào, của quốc gia nào thì
chỉ bênh vực che chở làng ấy, quốc gia ấy
mà thôi. Mỗi khi tranh chấp đất đai hay quyền lợi nào khác,
người ta kêu cầu vị thần của làng mình hay
quốc gia mình ra tay đánh bại kẻ thù và thần linh
của chúng. Loài người đánh nhau thì
thần thánh cũng phải đánh nhau.
Dân Do Thái cũng không thoát
khỏi quan niệm hẹp hòi và sai lầm ấy. Khởi đầu Giavê đối với họ
cũng chỉ là thần riêng của họ, cũng như
Baal là thần của người Canaan.
Phải qua nhiều thời đại,
nhiều kinh nghiệm họ mới học cho biết
được rằng: Giavê Thiên Chúa không phải là một
vị thần trong số các vị thần khác, không
phải là một chúa giữa các chúa khác. Trái
lại, Ngài là Thiên Chúa độc nhất, ngoài Ngài ra, không
có một thần hay một chúa nào khác.
Tất cả các thần các chúa đó chỉ
là ngẫu tượng, chỉ là những đồ
vật do tay con người làm ra: có
mắt có miệng mà không nhìn không nói, có mũi có tai mà không
ngửi, không nghe, có tay mà không sờ không mó, có chân mà không
bước không đi. Từ cổ họng
không thốt lên được một tiếng.
Những ý thức về một Thiên Chúa
độc nhất ấy lại khiến người Do
Thái đi tới một sai lầm khác vô cùng tai hại:
họ nghĩ rằng Thiên Chúa độc nhất ấy là
Thiên Chúa của họ, hay nói cách khác, họ độc
quyền chiếm giữ Thiên Chúa, bắt Ngài phải
về phe với họ, có bổn phận phải che
chở và giáng phúc cho họ, và do đó luôn chống lại
các dân ngoại.
Để chuẩn bị mạc khải cho
dân Do Thái biết Ngài là Thiên Chúa của muôn nước, là
Cha của mọi dân và nhất là chuẩn bị cho họ
đón nhận Đức Kitô, Đấng cứu
độ nhân loại, Thiên Chúa đã phải dùng
đến những bài học đôi khi cay đắng,
đó là họ đã phải mất nước, đã
phải chịu cảnh lưu đày, sống thân phận
tôi đòi giữa những kẻ mà họ nghĩ rằng
không bao giờ là dân của Chúa. Nhưng
cũng chính nhờ đó mà họ mới có được
một quan niệm về một Thiên Chúa phổ quát,
nghĩa là Thiên Chúa của mọi dân mọi nước.
Tất cả những
điều vừa trình bày đã được Đức
Kitô thực hiện một cách trọn vẹn. Thực vậy, với cái chết trên thập giá,
Ngài đã ký kết một giao ước mới và tụ
tập mọi dân mọi nước về cùng Thiên Chúa.
Ý tưởng này đã được Ngài diễn tả
bằng hình ảnh một tiệc cưới, trong đó
những người tham dự không phải chỉ là
người Do Thái, mà còn là tất cả những
người từ mọi ngả đường trần
gian.
Tuy nhiên, không phải cứ lãnh nhận bí tích
Rửa tội, cứ có tên trong sổ sách của giáo
xứ, là chúng ta nghiễm nhiên trở nên thành phần
của dân Chúa, điều quan trọng là mỗi
người chúng ta phải có một tấm áo cưới,
tức là tâm hồn trong sạch, đã tẩy trừ
khỏi những vết nhơ tội lỗi, đã ra
sức uốn nắn lại những khuyết
điểm của mình.
Với một con người mới như
thế, chúng ta thực sự là người Kitô hữu
thứ thiệt, chứ không phải chỉ là người
Kitô hữu thứ dổm, hữu danh vô thực mà thôi.
|