NHỮNG NGƯỜI DO THÁI
BỊ LOẠI BỎ VÀ DÂN NGOẠI ĐƯỢC KÊU
MỜI
Chú giải mục
vụ của Hugues Cousin
Điệp
khúc mở vào giai đoạn hai của cuộc hành trình
(c.22) không chỉ nhắc tới đích điểm
địa lý của cuộc hành trình này; nó còn loan báo
một thông tri quan trọng sẽ được cung
cấp trong cảnh tiếp theo (13,31-35).
Trình thuật này được dẫn
nhập bằng câu 23.
Một người lạ mặt hỏi: Phải tin ai?
Phải tin các Kinh sư, là những người khẳng
định rằng: Mọi người Israel đều
tham dự vào thế giới tương lai (Misnha, Sanhedrin
X, 1) hay tin những kẻ khác, đối với những
người này những kẻ bị hư đi thì
nhiều hơn những kẻ sẽ được
cứu thoát (Edras quyển thứ tư IX, 15)? Cách thế mà
Chúa Giêsu dùng để nói về tính cách cấp bách của
việc hoán cải (13,3-5) phải
chăng không xếp Ngài vào nhóm thứ hai?
Nhưng Chúa Giêsu lại không quan tâm
đến vấn nạn kiểu kinh viện này. Trước khi trả lời, Ngài
đóng khung nó bằng cách nói với tất cả các
người xung quanh (cùng một cảnh như ở 12,13-14) và nhấn mạnh đến sự
cố gắng:”Hãy chiến đấu để vào phòng
tiệc qua được cửa hẹp” (c. 24). Thực vậy, điều quan trọng là mỗi
người phải thay đổi cách sống. Chính vì thế, lời đáp của Chúa Giêsu không
xác định về số ít người được
cứu thoát nhưng về tính cách nghiêm trọng của
cuộc sống hiện tại của con người.
Nhiều người sẽ chen chúc vào
cửa hẹp mà không vào được. Ngoài việc
cửa hẹp dẫn đến niềm vui của bàn
tiệc, thực ra còn phải nói đến một yếu
tố thứ hai: thời gian gấp rút vì cửa sắp
đóng. Tìm cách vào, giữa đám đông
hỗn độn, ở phút chót là chuốc lấy thất
bại.
Khi
nói đến thời điểm mà cửa sẽ đóng,
lời cảnh cáo trở thành đe doạ: Việc
đóng cửa lại do lệnh của một nhân vật
chủ chốt, ông chủ nhà, mà không ai khác hơn là
những kẻ đối thoại với Ngài mới xin
mở cửa cho họ và do đó, họ phải nhắc
đến việc trước đây họ cùng ăn
uống với Ngài (x. 7,36; 11,37; 14,1) và
đã có nghe Ngài giảng dạy. Nhưng lời đáp
nhắc tới hai lần”Ta không biết các anh từ
đâu đến” –điều này, trong ngôn ngữ Kinh Thánh
(x. Am 3,2) có nghĩa là:”Ta không chọn các
ngươi, các ngươi không thuộc về những
kẻ được chọn”. Ở đây không hề có
việc tuỳ tiện theo ý ông chủ: bằng cách gián
tiếp trích Thánh vịnh 6,9. Chúa Giêsu nói rằng họ bị loại bỏ
bởi vì họ làm điều xấu. Có
những liên hệ – hời hợt với vị Sứ
Giả cũng chẳng ích lợi gì khi mà người ta
không chịu hoán cải. Chẳng ai
tự động mà được cứu rỗi.
Việc thuộc về dân mà Thiên Chúa đã ký Giao
Ước với Sinai, và là dân đầu tiên
được nghe giảng Tin Mừng nơi công cộng
và trong các hội đường, cũng chẳng cho
người ta được tấm vé vào Nước Thiên
Chúa đâu. Điều cần thiết
phải làm là hoán cải và đón nhận lời rao
giảng ấy.
Từ đó, Chúa Giêsu đi đến
hai xác quyết (cc. 28-29). Trước hết, việc loại ra khỏi
Vương Quốc đến liền sao phổ quát ở
câu 27 sẽ gây ra khóc lóc và nghiến răng, giận dữ
và hối hận cay đắng nơi kẻ đối
thoại với Ngài. Bực bội,
họ sẽ thấy những tín hữu Israel đích thực,
đại diện bởi các tổ phụ và tất
cả các ngôn sứ, hưởng hạnh phúc và bình an, đặc
điểm của Vương Quốc trong khi chính họ
phải ở lại bên Ngài. Thay chỗ của họ – xác quyết thứ hai: -
thiên hạ sẽ đến từ bốn phương
trời: đó là những dân tộc ngoại giáo sẽ vào
tham dự ơn cứu độ vĩnh hằng. Khi dùng đề tài Kinh Thánh nói về các dân
tộc hành hương về Giêrusalem để dâng lễ
vật tôn thờ Thiên Chúa (x. Is 60,3tt), Chúa Giêsu
để ý không nói đến tên của thành; vì vậy,
thành này không còn là địa điểm nơi mà Thiên Chúa
muốn người ta tôn thờ Ngài nữa: Vương Quốc
là một thực tại siêu việt. Với hình ảnh
được thanh lọc khỏi mọi tính cách quốc
gia chủ nghĩa đó, Chúa Giêsu thêm một hình ảnh
ở Is 25,6. Bữa tiệc trong Thế
giới mới diễn tả một hiệp thông trọn
vẹn giữa con người với Đấng cứu
thoát họ:”Thiên Chúa sẽ dẫn đưa những
kẻ được tuyển chọn vào tình thân mật
với Ngài và biến họ thành những người nhà
của Ngài” (J.Schlosser).
Phần
kết luận (c.30) làm ta nhớ đến sấm ngôn
của ông Simêon khi ông nói về sứ vụ của Chúa
Giêsu như duyên cớ cho nhiều người Israel
phải vấp ngã hay được chỗi dậy (2,34) và nhắc lại rằng Vương
Quốc sẽ kéo theo sự đảo ngược các tình
trạng của con người (x. những mối phúc và
hoạ ở 6,20-26). Giữa những kẻ
đến sau cùng có nhiều kẻ sẽ vượt lên
truớc những kẻ kỳ cựu, mặc dù những
người này đã được các ngôn sứ loan báo
từ lâu về việc Vương Quốc ngự
đến. Tuy nhiên đây cũng không phải là
luật tổng quát: câu kết luận hiểu ngầm
rằng những kẻ kỳ cựu đến
trước nhất sẽ chia sẻ chỗ nhất
với những kẻ mới đến từ khắp
thế giới. Ở Luca, lời Chúa Giêsu nói đây rõ ràng
thuận lợi cho Israel hơn là ở những đoạn song
song của Marcô và Matthêu.
Lời cảnh cáo có tính cách ngăn
đe trước hết được nói với các thính
giả Do Thái ở Giuđê – Galilê vào những năm 28-30;
dưới cái nhìn của Luca, chỉ một số ít trong
họ đã hoán cải, như nhóm Mười Hai và các môn
đệ khác, và có thể vào được Nước
Trời. Trong
các thính giả này đặc biệt được
nhắc tới, cũng là số ít thôi, những kẻ dám
làm điều bất chính tột độ cộng tác vào
việc hành quyết Chúa Giêsu (xcc. 31-35). Nhưng
đừng quên rằng những lời Tin Mừng này
vẫn còn tính thời sự và là tiếng mời gọi
hoán cải. Sẽ càng không có việc
cứu rỗi tự động cho các Kitô hữu cứ
khất lần đến ngày mai. Việc
canh tân đời sống luôn luôn cần được
lặp lại không ngừng. Đối với
mọi người, cửa đều hẹp cả:
những ai trong họ làm điều bất chính không có
thể nại vào sự thân thiết hời hợt với
Chúa Kitô để xin mở cửa sau khi cửa đã
đóng rồi.
|