Sứ mạng
của Đức Giêsu – Lm
FX Vũ Phan Long
Nguyện ước
sâu xa của Đức Giêsu, Đấng đầy Thánh
Thần, là đạt được cuộc gặp
gỡ cao độ, “nóng cháy”, với loài người.
Nếu chúng ta hiểu ý Người và cũng mong muốn
như thế, chúng ta cần để cho Thánh Thần
của Người hướng dẫn để biết
lấy lập trường đúng đắn.
1.- NGỮ CẢNH
Những lời Đức Giêsu nói
về tôi tớ và chủ đã chấm dứt tại 12,48
trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem; nay
Đức Giêsu chuyển sang những đề tài khác.
Đề tài đầu tiên là một loạt những
lời bình luận về sứ vụ của chính
Người (12,49-53). Trong những câu trước (cc.
36.40.43.45-46), tác giả đã nhắc tới việc
một ông chủ (kyrios), một tên trộm, và Con
Người, “đến”. Rất có thể những
điểm này đã gợi cho ông thêm các lời bình về
việc chính Đức Giêsu đến (cc. 49.51).
2.- BỐ CỤC
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1) Nguyện vọng sâu xa của
Đức Giêsu (12,49-50);
2) Hậu quả sứ mạng
Đức Giêsu gây ra (12,51-53).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ
GIẢI
- ném lửa vào mặt đất (49): Trong Cựu
Ước, lửa đôi khi được dùng với ý
nghĩa là một phương tiẹn để thanh
luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách
biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh
9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Các nhà chú giải gán cho “lửa” trong Lc
12,49 nhiều nghĩa: Chúa Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả,
thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria; thánh Giêrônimô); các thử thách
đang chờ các môn đệ (Maldonat); công trình thanh
luyện và canh tân của Đức Giêsu ở trần gian
(Knabenbauer, BJ).
- Thầy còn một phép rửa phải
chịu (50): Phép rửa ở đây có nghĩa ẩn dụ:
bị tràn ngập bởi tai ương. Đức Giêsu
khẳng định rằng ước muốn
Người vừa diễn tả phải lệ thuộc
một điều kiện: trước hết Con
Người phải lên Giêrusalem và trải qua cuộc
Thương Khó.
- lòng Thầy khắc khoải biết bao (50): Nghĩ
đến viễn tượng Thương Khó, tâm hồn
Người khắc khoải” (synechomai). Ta có thể
hiểu nỗi “khắc khoải” này như là cảm
nhận tại vườn Ghếtsêmani, hoặc như
một nỗi ước ao mãnh liệt là sứ mạng
cứu thế của Người đạt tới
mức hoàn tất (TOB).
- hoà bình (51): TM Lc thường nêu lên rằng hoà
bình / bình an là ân huệ tiêu biểu nhất của thời
thiên sai (2,14.29; 7,50; 8,48; 10,5-6; 11,21; 19,38-42; 24,36). Kiểu nói
nghịch lý của Đức Giêsu ở đây cho hiểu
hòa bình này không phải là thứ hòa bình trần thế
dễ đạt được như các ngôn sứ
giả vẫn giới thiệu (Gr 6,14; 8,11; Ed 13,10.16).
- cha chống lại con trai (53): Rất có
thể Mk 7,6 là bối cảnh của câu này.
4.- Ý NGHĨA CỦA
BẢN VĂN
* Nguyện vọng sâu xa của Đức
Giêsu
(49-50)
Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu có
nói một câu vẫn còn gây thắc mắc: “Thầy đã
đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy
những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng
lên”. “Lửa” Đức Giêsu mang đến mà ném vào mặt
đất là gì? Và tại sao Người lại mong
ước cho lửa đó bùng lên?
Có những người cho rằng
đây là một thứ lửa đã được
đốt lên, nên dịch là: “Thầy đã đến ném
lửa vào mặt đất, và Thầy còn ước mong
gì nữa, nếu lửa ấy đã bùng lên rồi”
(Bản dịch Anh giáo, Crampon, Joušon, NTT…); đây là y như
thể Đức Giêsu chẳng còn gì mà mong ước, nên
chỉ còn việc chờ đợi chịu Thương
Khó (c. 50) hầu hoàn tất sứ mạng. Bản Nova
Vulgata dịch theo hướng này: “Ignem veni mittere in terram et
quid volo? Si iam accensus esset!” Nhưng đa số các tác
giả nghĩ rằng Đức Giêsu diễn tả
một nguyện ước, nên đã dịch: “Thầy
đã đến ném lửa vào mặt đất, và
Thầy những ước mong phải chi lửa ấy
đã bùng lên”. Bản Vulgata cũ dịch theo nghĩa này là:
“Ignem veni mittere in terram et quid volo nisi ut accendatur?”; đây
cũng là cách dịch của Segond, Zorell, Lagrange, BJ, TOB,
CGKPV…
Trong Cựu Ước, “lửa” đôi
khi được dùng với ý nghĩa là một
phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds
31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is
33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2).
Vậy từ ngữ “lửa” của Lc 12,49 có nghĩa nào?
Có tác giả cho rằng lửa này quy về Chúa Thánh
Thần (x. Cv 2,3): Đức Giêsu hiện đang mang Chúa
Thánh Thần và ước mong là tất cả mọi
người được đầy Thánh Thần (Thánh
Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria, thánh Giêrônimô).
Nhưng lửa này cũng được giải thích là quy
chiếu về phán xét (x. 3,17): Đức Giêsu đưa
lại sự chia cắt giữa người tốt và
kẻ xấu và muốn rằng sự chia cắt này
xảy ra trọn vẹn (Knabenbauer, BJ).
Dù có chọn nghĩa nào, “lửa”
cũng cần được liên kết với Lc 3,16, là
câu trả lời của Gioan: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh
em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế
hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép
cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em
trong Thánh Thần và lửa”. Qua câu này, ta nhận thấy
“lửa” có nghĩa tượng trưng. Thật ra dựa
theo ngữ pháp (hai danh từ nối với nhau bằng liên
từ “và”), chúng ta đã có thể giải thích rằng
“Thánh Thần và lửa” có nghĩa là “Thánh Thần là
lửa”, và từ đó có thể đi đến những
nghĩa khác như là hệ quả, chẳng hạn “sự
thanh luyện”, hay là “sự biện phân”, “sự xét xử”
như là những tác động của Thánh Thần. Tuy
nhiên, nối tiếp câu này là c. 17 cũng có “lửa”: “Tay
Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì
thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề
tắt mà đốt đi”. “Lửa” này chắc chắn
không có nghĩa như “lửa” trong c. 16.
Muốn tìm ra nghĩa chính xác của
“lửa”, nên tìm hiểu xem Đức Giêsu đến
để làm gì? Người muốn đạt
được điều gì nhờ hoạt động
của Người? Chẳng lẽ Người không
muốn mang bình an đến, kêu gọi loài người
thông cảm nhau hơn, đối xử nhân hậu và
từ bi với nhau hơn? Chính Đức Giêsu đã diễn
tả rõ ràng về mục tiêu sứ mạng của
Người và những hậu quả phát sinh từ đó:
Người đến ném lửa vào mặt đất; có
một phép rửa Người phải chịu;
Người đến để gây chia rẽ. Thật ra
những lời lẽ này không mô tả hết ý nghĩa
của sứ mạng của Đức Giêsu. Nhưng các
phương diện thuộc sứ mạng của
Người được nhắc đến ở
đây cần được cứu xét.
Nói đến việc “Người
đến”, chúng ta nhớ đến những lời khác:
“Tôi không đến để kêu gọi người công
chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám
hối ăn năn” (5,32). “Con Người đến để
tìm và cứu những gì đã mất” (19,10). Một yếu
tố cốt yếu của sứ mạng Người là
nhân ái đối với những kẻ tội lỗi,
nỗ lực đưa họ về lại với Thiên
Chúa. Đức Giêsu đầy lòng tốt lành và từ bi
thương xót (x. Lc 7,36-50). Nhưng Người không
hề nhắm biện minh cho mọi sự, triệt tiêu
sự phân biệt giữa tốt và xấu, làm cho mọi
sự hòa hợp với nhau. Mục tiêu của
Người không phải là sự yên tĩnh và bình an
của một thỏa hiệp chung. Người đã
đến ném “lửa” vào trần gian. Đó là ý muốn
thâm sâu của Người: trái đất được
bao trùm trong “lửa” ấy và bốc cháy. Ghi nhận rõ ràng
những đường nét của câu nói của
Đức Giêsu, ta thấy các cách giải thích trên về
“lửa” dường như quá gò ép.
Có thể nói Đức Giêsu gán cho toàn
thể hoạt động của Người đặc
tính của “lửa”. Người đến, đầy
Thánh Thần, đầy sức sống thâm sâu nhất
của Thiên Chúa. Người loan bao Tin Mừng cho
người nghèo. Người cho những kẻ bần
cùng và tội lỗi biết lòng thương xót của
Thiên Chúa. Khi làm những việc ấy, Người nhen lên
ngọn lửa, muốn đốt cháy, và như lửa,
Người bao trùm, xuyên suốt mọi sự. Người
sẽ đến gặp người ta, nắm bắt
người ta một cách thâm sâu. Điều mà
Người làm không chỉ là một đóng góp trung
lập, không hứng thú. Theo cách làm của Người,
không có chỗ cho sự dửng dưng và chán chường,
không có bức tường vô phương xuyên thấu
đẩy bật mọi sự trở lại, không có
một tấm bạt tráng dầu trên đó mọi sự
trôi tuột đi. Hành động của Đức Giêsu có
đặc tính của “lửa”: nó muốn thắng
vượt mọi thái độ lãnh đạm và xa cách; nó
muốn đốt cháy; nó muốn có một cuộc gặp
gỡ mãnh liệt, sống động.
* Hậu quả sứ mạng Đức
Giêsu gây ra (51-53)
Trong cuộc gặp gỡ này, ai đón
tiếp Đức Giêsu và sứ điệp của
Người thì được đầy Chúa Thánh Thần.
Ngược lại, đối với ai từ
khước Đức Giêsu, thì cuộc gặp gỡ này
lại trở thành một cuộc phán xét nhờ trung gian
Đức Giêsu, sự đối lập đã bùng cháy và
các tâm trí đang được phân rẽ (x. 2,34t). Trong
cuộc gặp gỡ với Người, sự phân
rẽ này đã được thực hiện và từ
đó phát xuất ra các tương phản. Những
người đón tiếp Người và những
người từ khước Người ở trong
một thế đối kháng mạnh mẽ với nhau. Do
đó mà xảy ra chuyện là Đức Giêsu, Đấng
muốn cuộc gặp gỡ này phải đậm
đặc và ý thức về kết quả khác của
cuộc gặp gỡ, lại không loan báo hòa bình, nhưng
loan báo sự chia rẽ như là mục tiêu của việc
Người ngự đến.
Một phần cốt yếu trong
cuộc tiến bước của Người là khổ
nạn, chết và phục sinh, như Người đã
loan báo cho các môn đệ (9,22). Kết thúc này của hành
trình là “phép rửa” mà Người phải chịu. Kết
cuộc này đến với Đức Giêsu không phải
như một số phận ngẫu nhiên, nhưng là
để hoàn tất những gì Chúa Cha đã quy
định cho Người và các ngôn sứ đã tiên báo (x.
18,31). Tinh thần của Đức Giêsu cũng bị
chế ngự bởi kết cuộc này, và ý muốn sâu xa
của Người là mọi sự được hoàn
tất nơi Người. Và kết cuộc này cũng có
đặc tính lửa thiêu đốt trọn cuộc sống
của Đức Giêsu.
Vào lúc Đức Giêsu chào đời, ca
đoàn các thiên thần đã dâng lên Thiên Chúa lời chúc
tụng về hòa bình (2,14). Chính Đức Giêsu cũng
đã ban bình an cho người phụ nữ tội lỗi
và người phụ nữ được chữa lành
(7,50; 8,48). Khi được sai đi rao giảng, vào nhà
nào, các môn đệ phải chào chúc bình an (10,5t). Đặc
biệt đây là sự bình an với Thiên Chúa. Nhưng do
những kết quả khác nhau phát sinh từ cuộc
gặp gỡ với Đức Giêsu, xảy ra những mâu
thuẫn giữa loài người với nhau, thậm chí
xảy ra chia rẽ trong một gia đình. Trong ví dụ
Đức Giêsu nêu ra, đó là sự chia rẽ giữa
thế hệ lớn tuổi hơn và thế hệ
trẻ hơn. Cha và mẹ một bên chống lại con trai,
con gái và con dâu bên kia: “ba chống lại hai, hai chống
lại ba”. Trong sách ngôn sứ Mikha, chúng ta đọc
thấy: “Con trai khinh thường cha, con gái đứng lên
chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng,
người trong nhà lại hoá ra thù địch” (7,6). Ở
đây cuộc xung đột được gây ra từ
một bên: đây là cuộc nổi loạn của
những người trẻ chống lại thế hệ
già hơn. Còn xung đột Đức Giêsu mô tả thì hai
chiều: “cha chống lại con trai, con trai chống
lại cha”. Không phải là một bên bách hại bên kia. Và
cũng chẳng rõ là bên nào có lý hơn. Như thế hai
bản văn có hai quan điểm khác nhau, không thể dung
hòa. Khi nhận quan điểm này, người ta chống
lại quan điểm kia. Đón nhận quan điểm
này cũng đồng thời là từ khước quan
điểm kia. Người ta không thể cùng một lúc
theo Đức Giêsu và chống Đức Giêsu. Và cũng
chẳng có một lập trường ở giữa.
Sự chia rẽ này chỉ do người ta lấy lập
trường cá nhân đối với Đức Giêsu,
chứ không do bất cứ những đối lập nào
khác.
+ Kết luận
Những lời Đức Giêsu nói trong
đoạn Tin Mừng trên đây cho chúng ta thấy
nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu. Sứ
mạng của Đức Giêsu nhắm đạt
được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng
cháy”, với loài người. Trái tim của Người
khao khát hoàn tất hành trình mà Thiên Chúa đã quy định
cho Người. Mục tiêu Người nhắm không
phải là một sự hài hòa bên ngoài, nhưng là một
việc lấy lập trường rõ ràng kể từ khi
đã gặp gỡ cao độ với Người.
Từ chỗ này có thể phát sinh các chia rẽ. Người
ta không được hy sinh việc lấy lập
trường theo Đức Giêsu hầu đạt
được một thỏa hiệp cho việc đi tìm
sự hài hòa.
5.- GỢI Ý SUY
NIỆM
1. Như lửa có khả năng
tẩy luyện, hoạt động của Đức
Giêsu có thể thanh luyện con người chúng ta khỏi
những tâm tình bất chính, và ban cho chúng ta Thánh Thần
để Thánh Thần tiếp tục sưởi ấm và
soi sáng chúng ta.
2. Đức Giêsu đang tiến về
Giêrusalem để đi vào cuộc Thương Khó; tâm
hồn Người khắc khoải. Chỉ qua cuộc
Khổ Nạn–Phục Sinh, ơn cứu độ mới
được ban cho loài người. Nhận ra
được điều này, chúng ta được
mời gọi bỏ đi những phương tiện
dễ dãi, những phương tiện to lớn chúng ta
đang dùng để bảo đảm mọi
phương diện cuộc sống chúng ta. Ngoài ra, nếu
muốn đốt lên trên trái đất một ngọn
lửa như Đức Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể
tránh né “phép rửa” Đức Giêsu đã chịu, tức
phải chấp nhận đi qua tình trạng tự
truất hữa và thất bại, chấp nhận hiến
tặng cuộc sống chúng ta.
3. Qua cuộc gặp gỡ với
Đấng chịu đóng đinh, các thần khí bị
phân chia ra. Thánh Phaolô sẽ viết: “Chúng tôi rao giảng
một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà
người Do thái coi là ô nhục không thể chấp
nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng
đối với những ai được Thiên Chúa kêu
gọi, dù là Do thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là
Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của
Thiên Chúa” (1 Cr 1,23-24). Tất cả công trình và cuộc hành
trình của Đức Giêsu nhắm đến một
cuộc gặp gỡ mãnh liệt. Nhưng chính từ
đây phát sinh chia rẽ và bất thuận.
4. Đức Giêsu không hề có ý phá
hỏng các dây liên kết trong gia đình; trái lại
Người vẫn khẳng định rằng hiếu
thảo với cha mẹ là một điều răn
của Thiên Chúa (x. Mc 7,10). Tuy nhiên, trong cuộc sống làm
môn đệ Người, chúng ta phải tôn trọng
một bậc thang các giá trị, chúng ta phải chấp
nhận hy sinh tất cả mọi sự muốn ngăn
cản chúng ta bước đi theo Người.
|