tầm nhìn của cha Salvatore và của những người phổ biến ý kiến của cha mà không để ý đến những sai lầm lớn lao bên trong.
Khi chúng ta lầm lẫn giữa cái sai và cái đúng, kết quả mang lại thật tai hại. Các nhà trừ quỷ thì ít ỏi và, do đó, người ta chạy đến hàng ngũ đông đảo các thày phù thủy. Người tín hữu chẳng được ai dạy bảo. Tôi đã trừ quỷ cho một nữ tu đang ở trong tình trạng đáng thương như là hậu quả quỷ ám mà suốt mười năm chị ta cứ yếu đi dần dần. Tôi đã gọi bà bề trên cả và bảo bà rằng bà không nên chờ đợi cho tới khi bệnh nhân gần chết mới đi gọi bác sĩ; bà nên cho gọi bác sĩ ngay lúc bắt đầu cơn bệnh. Bà bề trên trả lời: "Cha nói đúng, nhưng những điều này đã chẳng có linh mục nào dạy chúng tôi." Bà cũng kể cho tôi bao nhiêu linh mục - không kể các bác sĩ - đã gặp chị nữ tu đó mà không hề có một người nào đã gợi ý rằng nguyên nhân đích thực của một căn bệnh mà các cách điều trị thông thường đều bó tay, thì có thể có nguồn gốc do ma quỷ.
Thực ra trong các bài viết của tôi cũng đã phê bình các nhà trừ quỷ. Tôi đã nói rằng "chúng ta bị thất truyền" rồi, nghĩa là nơi các giáo phận, không còn thấy truyền thống đào tạo những nhà trừ quỷ cho thế hệ kế thừa nữa. Do đó, thường xảy ra là một số nhà trừ quỷ không biết đến những diễn tiến sơ đẳng nhất. Tôi đã trách cứ Đức Ông Giuseppe Rutta, kinh sĩ nhà thờ chính toà và là nhà điều phối các nhà trừ quỷ ở Turin, Italy. Franca Zambonini đã phỏng vấn ngài nhân danh báo Famiglia Cristiana (30.3.1988), như đã được gợi ý bởi Đức Hồng Y Ballestrero. Rutta đã khẳng định rằng "sự quỷ ám bị giới hạn trong thời gian và chỉ kéo dài chừng một vài giờ hay một vài ngày." Câu trả lời ngây thơ này bộc lộ tất cả sự thiếu kinh nghiệm sơ đẳng nhất. Thực ra, ngài tiếp tục bằng cách nói rằng hết những ai đã đến với ngài "chẳng bao giờ biểu lộ bất cứ dấu hiệu nào đòi phải trừ quỷ". Chính tôi, trong chín năm làm việc cật lực (nhiều đến nỗi tôi đã phải bắt buộc cắt bớt gánh nặng của tôi), tôi đã trừ quỷ cho trên ba mươi ngàn người và tôi đã ghi tên mỗi người đã bị quỷ ám: có khoảng chín mươi ba người đã bị ám xấp xỉ mười năm. Có những người đã trải qua những cuộc trừ quỷ cách khoảng đều đặn trên những thời kỳ mười, mười lăm năm hay hơn nữa, mà họ vẫn không được giải thoát.
Tôi cũng đã mạnh mẽ phê bình Đức Ông Giuseppe Vignini, linh mục xá giải nhà thờ chính toà Florence, vì bốn bài báo mà ngài đã đăng trên tờ Toscana oggi (tháng 10 và 11.1988). Khi một nhà trừ quỷ viết rằng ma thuật, lễ misa đen, việc bỏ bùa... chẳng là gì khác hơn là "những việc bày tạo vô thưởng vô phạt, phát sinh từ trí tưởng tượng gợi lên"; khi ngài quả quyết rằng việc trừ quỷ không phải là bí tích nhưng chỉ đơn giản là một sự cầu khẩn, vì không biết rằng đó là một á bí tích, khi ngài kết luận những tư tưởng ẩu tả của ngài với lời phát biểu rằng: thực ra, các việc trừ quỷ không nên thực hiện bao giờ. Vậy thì tôi phải nói cho ngài với hết lòng cung kính rằng "Con thân mến, con đi học lại nghề của con đi hoặc là con nên đổi nghề đi."
Tôi biết một số nhà trừ quỷ thậm chí chẳng có lấy một cuốn Nghi thức; họ không hề biết những qui tắc mà họ phải theo cũng như những kinh nguyện phải đọc. Họ chỉ biết bản dịch - (không hoàn chỉnh) - bằng tiếng Ý bản kinh trừ quỷ của Đức Lêô XIII và chỉ đọc mỗi kinh ấy. Báo chí thế giới đã công khai đăng tải trường hợp cô Annelise Michel, ở thành phố Klingenberg, Germany. Cô là một cô gái hai mươi bốn tuổi, đã chết vào mùa hè năm 1986 sau một loạt các cuộc trừ quỷ. Vấn đề thành chuyện bởi vì hai nhà trừ quỷ đã bị truy tố và phải ra hầu toà. Dữ liệu đã được đăng tải trong các tạp chí và các sách vở khác (như cuốn Diavoli demoni possession của Kasper và Lehmann [Queriniana, 1983]) nói bóng gió rằng cả hai linh mục liên quan đã quá vội vã nghi ngờ có sự hiện diện quỷ ám. Dường như hai nhà trừ quỷ này - mặc dù luôn thực hiện dưới sự đồng ý và sự hiện diện của cha mẹ cô gái - đã để mình bị điều khiển bởi những điều mà chính cô gái nói là nên làm, để mang lại lợi ích cho cuộc giải thoát.
Tuy nhiên, một cuốn sách về sau đã nghiên cứu các sự kiện của trường hợp này sâu xa hơn: cuốn Annelise Michel, của tác giả Kasper Bullinger (Altotting: Ruhland, 1983). Cuốn sách này nghiên cứu trường hợp và đã kết thúc bằng việc giải oan hoàn toàn cho hai nhà trừ quỷ. Nó chứng minh rằng cả vị giám mục, người đã ban phép trừ quỷ và hai linh mục đã hành động một cách hết sức đúng đắn. Cuốn sách cũng chỉ ra nguyên nhân cái chết của cô gái, hoàn toàn không do sự cử hành và lãnh nhận á bí tích. Dù sao biến cố này cũng góp phần khiến cho các linh mục trở nên miễn cưỡng chấp nhận nhiệm vụ làm nhà trừ quỷ.
Cuối cùng, tôi nói đến các giám mục. Thực sự tôi rất buồn các ngài, bởi vì tôi yêu mến các ngài và muốn phần rỗi cho các ngài. Bản Giáo luật không nói đến lỗi "quên sót trong chức vụ"; nhưng đoạn Phúc Âm về ngày chung thẩm, của thánh Matthêu đoạn 25, cho chúng ta một chỉ định rõ ràng rằng tội quên sót có thể là một lỗi phạm không thể tha thứ.
Trong trí tôi vẫn còn in đậm câu phát biểu của một Đức Tổng Giám mục danh tiếng vào ngày 25.11.1988, trong lúc ngài đang là khách được mời trong một chương trình truyền hình rất nổi tiếng, do ông Zavoli làm chủ toạ. Đức Tổng Giám mục này đã xuất hiện để huyênh hoang rằng ngài chưa bao giờ làm việc trừ quỷ và cũng chưa bao giờ bổ nhiệm ai làm nhà trừ quỷ. May mắn thay, cha đáng kính Formigoni, là thành viên của phong trào Comunione e Liberazione, cũng có mặt trên chương trình, và ngài đã trình bày quan điểm Kitô giáo. Sau đó tôi đã ghi lại toàn thể các loạt bài bình luận của các giám mục, những vị - dù không có ý vơ đũa cả nắm - chẳng làm vẻ vang cho hàng ngũ giám mục Ý. Những câu như thế đã được thuật lại cho tôi từ khắp nước Ý, sau đó tôi đã chuyển chúng đến các vị giám mục của chúng trước khi tôi định với các ngài một cuộc hẹn. Tôi sẽ kể ra những lời bình thông thường nhất: "Tôi không bổ nhiệm các nhà trừ quỷ, đó là vấn đề nguyên tắc." "Tôi chỉ tin vào khoa tâm lý học." "Bạn vẫn còn tin vào những chuyện như thế sao? "Tôi chẳng tìm được bất cứ một linh mục nào sẵn lòng chấp nhận bổn phận này. Ông hãy đi nơi khác mà tìm." "Tôi không bổ nhiệm các nhà trừ quỷ và cũng không làm việc trừ quỷ bởi vì tôi sợ. Nếu ma quỷ trở thành kẻ thù của tôi, tôi sẽ làm gì đây?" "Tôi muốn biết kẻ nào đã đặt điều ngu ngốc ấy vào đầu óc bạn." Tôi có thể kể ra nhiều nữa. Mỗi một câu trả lời như trên đã gây ra bao đau khổ cho người nhận nó, và tôi tự hỏi liệu nó có thể hiện cùng một nỗi đau nơi người nói ra nó không. Phần lớn những cá nhân này đến gặp vị giám mục sau khi đã được cha Candido trừ quỷ cho và cha Candido đã cảnh báo rằng họ cần có thêm những cuộc trừ quỷ. Tức là, các nạn nhân đã tiếp cận với các giám mục của họ, được trang bị với sự chẩn đoán của một nhà trừ quỷ tài ba và rất nổi tiếng. Tôi không có ý vơ đũa cả nắm. Tôi trở thành nhà trừ quỷ là nhờ vào sự nhạy bén và sáng kiến của đức hồng y Poletti. Tôi tin rằng mỗi nhà trừ quỷ sẽ chứng tỏ nhân danh vị giám mục của mình với cùng một lòng biết ơn như thế.
|