17. VII. “BẢO VỆ VIÊN ÐÁ QUÝ”
Ðó là kiểu nói thi ca mà một số tác giả các sách thiêng liêng dùng để ca tụng bậc độc thân trong Giáo Hội.
Các tác giả đó trình bày bậc đồng trinh như là:
• Bằng chứng tuyệt hảo của các sức lực thiêng liêng mà đời sống thiêng liêng mang lại;
• Hoa trái của sự trong sạch của tâm hồn thân xác vị linh mục, người mỗi ngày được tiếp xúc thân mật với Mình và Máu của Người Con, Người đó có một Mẹ trinh khiết hơn tất cả các trinh nữ.
• Sự phối hợp thần bí huyền nhiệm mà vị tân chức giao ước với Giáo Hội, Hiền thê trinh khiết của Chúa Giê-su,
• Tấm gương sáng chói nhất và bài giảng hùng mạnh nhất được trao ban cho Giáo Hội – lúc mà đang bị nguy hiểm của các thú vui nhục dục đe dọa.
• Sự chúc phúc được liên kết với chức linh mục mà không có một quan hệ xác thịt nào với bất cứ một thụ tạo nào tại trần gian này. Nhưng lại có thể cống hiến mọi giây phút, mọi sức lực cho tác vụ tông đồ của mình.
Tất cả những điều trên đây là một bài ca tụng vinh quang của Giáo Hội, người thông qua một sự cao cả táo bạo, đã dám đòi hỏi các linh mục của mình phải sống bậc độc thân nghiêm chỉnh - bất chấp sự yếu đuối của con người.
Tất cả những điều trên đây đều phản ánh những tư tưởng sáng chói mà Giáo Hội đã đặt vào trong trái tim của các tiến chức, để các vị có một lòng tôn trọng và yêu mến chân thành bậc độc thân, và để cho tất cả mọi người đánh giá đúng giá trị của kho tàng đó.
Tuy nhiên, Giáo Hội cũng không quên đưa ra những lời khuyến cáo rất nghiêm túc. Giáo Hội luôn nhắc nhở cho các tiến chức vai trò quan trọng của gương sáng mà các vị phải nên, nếu không thì lời hay ý đẹp của các vị không gây được ảnh hưởng tốt nào trong trái tim của giáo dân. Coelestis vitae formam praebeatis. – Lucete sicut luminaria in mundo. – Estote nitidi, mundi, puri, casti, sicut decet ministros Christi: như thế Giáo Hội đã sử dụng rất nhiều từ để buộc các tiến chức phải có sự trong trắng trong đời sống luân lý.
Ðấng Cứu Thế cũng đã báo trước cho các tông đồ về việc ma quỷ sẽ sàng các ông như sàng gạo.
Ma quỷ nhiều khi mặc áo sáng chói để lôi cuốn những tu sĩ vô ý vì bất cẩn mà vướng vào những quan hệ thiếu khôn ngoan, làm những việc bề ngoài xem ra không sao, nhưng cuối cùng thì lại làm hư sự, như khi ai đó đặt chân trên đường dễ trượt hoặc trên một tảng đá không vững, hoặc một lỗ hổng mà trên mặt bị phủ kín.
Thật là một cảnh tượng buồn thảm biết bao khi ta thấy một người giáo dân hoặc một linh mục lỡ bước quan trọng, có ảnh hưởng tới đời sống nội tâm của mình và vụ việc này không còn cho phép vị đó sống vui tươi thoải mái suốt cuộc đời còn lại. Rồi thêm vào gương mù trên đây, đến lượt những kẻ thù đã sẵn có lòng thù ghét, lại làm cho mọi việc rối tung lên. Thế là tất cả những trái tim trung thành lại phải một mẻ buồn lai láng.
Gương mù gương xấu gây nên bởi những người lãnh đạo dân chúng, các bậc thầy, các linh mục, đó không phải là chén đắng mà Chúa Cứu Thế phải uống cạn đó sao? Lúc đó, Chúa đã hỏi các môn đệ: chén mà Thầy sẽ uống, liệu các con có uống nổi không? Cái phần đắng cay nhất của chén này – bên cạnh những thử thách và những khổ đau bên ngoài – lại không phải là nỗi đau luân lý mà các ngài gánh chịu trước những gương mù đó sao? Những người lẽ ra phải soi sáng dẫn dắt dân chúng thì chính các ngài lại gây ra những gương mù đó.
Vậy, ta hãy giữ gìn bảo vệ cẩn thận viên đá quý đó !
Hạnh phúc thay vị linh mục nào suốt cuộc đời mình, luôn giữ trong trắng chiếc áo alba mà ngài đã lãnh nhận trong ngày lãnh chức phụ tá phó tế. Ngài có thể ca hát trong niềm tín thác và lòng yêu mến, bài thánh thi mà các môi miệng thiên thần đã ca lên trong mọi thời đại, để ca tụng sự trong sạch của các trinh nữ.
Vậy ta hãy nhìn vào mầu nhiệm này và làm thế nào để nó có được âm vang trong trái tim của chúng ta.
Chính Ðức Kitô đã bảo đảm cho ta là: Họ sẽ trở nên giống như các thiên thần.
HỌ SẼ NÊN GIỐNG NHƯ CÁC THIÊN THẦN
Những so sánh vay mượn những sự ở trần gian này không đủ sức để tỏ lộ xứng đáng sự cao cả và chức bậc của sự trinh khiết tinh tuyền. Sự thực hành nhân đức này nâng con người lên một bình diện cao quý hơn: nó đưa con người nên giống các thiên thần trên trời. Nói thế, có phải là quá đáng không ?
Không – không quá đáng chút nào và cũng không hàm hồ, vì chính Ðấng Cứu Thế đã khẳng định :
“Khi con người sống lại, họ sẽ nên giống các thiên thần, vì lúc đó người đàn ông không cưới vợ, và người đàn bà không lấy chồng nữa”. (Mt 22, 30)
Tuy nhiên, không phải về thể xác, mà người đồng trinh được nên giống thiên thần đâu, nhưng chính là sự tự nguyện dâng hiến bên trong. Ðó chính là khi ta từ bỏ hôn nhân “vì nước trời” (Mt 19,12) để chỉ còn nghĩ đến Chúa và những điều đẹp lòng Chúa (1 Cr: 7,32), để tận hiến bản thân cho Chúa (1 Cr: 7,33) để chỉ còn nghĩ đến việc thánh thiện trong thân xác và trong tâm hồn (1 Cr: 7, 34).
Những linh hồn giống các thiên thần là như thế. Vị Tông Ðồ các quốc gia, Thánh Phaolô đã khẳng định như thế. Ngài treo gương sáng ngời của sự tận hiến vì tình yêu, và vì thế, Ngài đã được đặc ân ngay khi còn ở dưới đất này là được đem lên tầng trời thứ ba.
Lu-y Gon-za-ga được Giáo Hội tặng cho tước hiệu “người thanh niên giống thiên thần”. Còn Thánh Gio-an Kim Khẩu, đã khéo phát biểu khi so sánh như sau: cho dù những ai sống tại trần gian này mà không bị ràng buộc bởi các dây hôn nhân, tự bản tính, là thua kém các thiên thần, tuy nhiên, các vị đó lại được vinh quang hơn các ngài (các thiên thần); bởi lẽ, bất chấp những dây ràng buộc của thế gian này, các vị đó chỉ sống cho những sự trên trời; sự an ủi của các ngài là ngay từ đời này, đã được ở bên cạnh Vị Vua trên trời cùng với sự trong trắng của linh hồn và của thân xác.
|