MeMaria.org
Radio Giờ Của Mẹ - Giờ Bình An - Giờ Tin Yêu - Giờ Hy Vọng
(714) 265-1512. Email: Kim Hà
banner
Skip Navigation Links.
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tài Liệu Về Đức Mẹ</span>Tài Liệu Về Đức Mẹ
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đức Mẹ Việt Nam</span>Đức Mẹ Việt Nam
Lòng Thương Xót Chúa
Mục Bác Ái / Xin Giúp Đỡ Vn
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tiểu Mục</span>Tiểu Mục
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đề Mục Chính</span>Đề Mục Chính
Gallery
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tác Giả Và Tác Phẩm</span>Tác Giả Và Tác Phẩm
Google Search
memaria www  

Local Search
PayPal - The safer, easier way to pay online!
top menu :: mẹ maria
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
  
Tác Phẩm: Những Chặng Đường Gian Khổ, Chương Thứ Nhất (2)
Thứ Ba, Ngày 10 tháng 2-2009

CHƯƠNG THỨ NHẤT
SỰ NGUY HIỂM KHI VƯỢT BIÊN TÌM TỰ DO BẰNG ÐƯỜNG BỘ
.

I. Lịch sử cuộc Vượt Biên đường bộ:

Trong cuộc hành trình tìm tự do, người tị nạn đường bộ đã chịu đựng trăm cay ngàn đắng. Họ bị bỏ rơi để rồi chết tức tưởi, không một nấm mồ chôn thân. Họ đã bị giam cầm, hành hung, tra tấn, đánh đập, rồi bị bọn lính thổ phỉ cướp của dọc đường hay các lực lượng lính người Cambodia dùng bạo lực để cưỡng hiếp tập thể, và bị giết chết một cách oan ức và dã man tại vùng lãnh thổ xứ Cambodia và tại các trại tị nạn nơi vùng biên giới Thái-Cambodia.

Kể từ năm 1979, khi phong trào trốn qua biên giới Cambodia để buôn lậu rất thịnh thành thì hàng ngàn người tị nạn Việt Nam đã trốn đi thoát để đến tị nạn tại vùng biên giới Thái và Cambodia. Nhưng cũng từ đấy, hàng ngàn thảm cảnh bi đát đã diễn ra từng ngày. Những câu chuyện nói về người Việt Nam chết trên đường đi tìm tự do đã, đang và sẽ tạo thành một giai đoạn lịch sử bi hùng và thống hận cho lịch sử và văn hoá thời đại của thế giới và Việt Nam trong tương lai.

Trong ba mươi hai năm, kể từ năm 1975 đến nay, thảm cảnh này đã được nói đến rất nhiều qua sách báo, truyền thanh, truyền hình, bằng lời thư thống thiết. Tuy vậy, tệ nạn này đã tiếp diễn hàng ngày bởi các lực lượng Khmer Ðỏ (Pol Pot), lực lượng Cambodia kháng chiến để chống chính quyền Cộng Sản Việt Nam, (thường được gọi là Para) thuộc quyền của các lãnh tụ Sihanouk, Son Sann hay Lon Nol.

1. Bị giết hại:

Theo lời kể của các nhân chứng Việt Nam còn sống sót tại Hoa Kỳ thì người tị nạn đường bộ bị đối xử tàn tệ hơn súc vật. Họ bị giết chết bằng đủ mọi cách dã man và mọi rợ:

- Có người tị nạn bị lính Para hay lính Pol Pot dùng búa đập vào đầu đến lòi óc. Có người bị chúng chặt đầu bằng ngọn mác hay chiếc rìu chặt củi. Người khác bị chúng buộc treo lên cây cao để rồi cả bọn chúng xúm lại rung cây cho nạn nhân rớt chết.
- Có người sợ chạy trốn thì bị bọn đồ tể ấy lấy dao mổ bụng rồi móc buồng gan ra xào nấu để chúng ăn. Bộ mật của nạn nhân thì bị treo trên hàng rào gai thép để làm gương cho những người còn muốn chạy trốn.
Rất nhiều người khác thì bị bắn giết, thân xác họ bị vùi dập ở những hố cạn đào vội vàng ở một góc rừng hoang. Những người khác thì bị chúng dùng roi và gậy đánh cho đến chết chỉ vì đã chậm chân vác gạo đi theo sau mọi người.

2. Bị hành hạ bằng nhiều cách:

Có những người thanh niên bị chúng bắt buộc phải đi gỡ mìn và đào hầm chông cho chúng. Nếu ai không có kinh nghiệm gỡ mìn thì bị mìn nổ chết banh xác. Nếu ai may mắn gỡ được một lần thì những lần sau thể nào cũng bị chết không toàn thân. Có người vì quá sợ nên sau đó đâm ra cuồng trí và hoá điên dại.

Những thanh niên khỏe mạnh và cường tráng thì bị giam giữ tại các làng và các khu trại để đi làm lao công tạp dịch cho chúng, chẳng hạn như phải đào hầm chống xe tăng, gỡ mìn, làm hố chông, đào cầu tiêu công cộng hay phải gỡ mìn dù rằng họ chẳng hề có kinh nghiệm gì cả. Các cậu phải đi tải gạo, họ phải khiêng từng bao gạo nặng và đi thật xa dưới cái nắng thiêu cháy của vùng nhiệt đới.
Cái dã man nhất của bọn Pol Pot là chúng bắt dân tị nạn Việt làm lao động khổ sai cho chúng.

3. Bị hãm hiếp và giết thảm:

Nếu nạn nhân là phụ nữ thì còn bị nhiều tai họa hơn. Họ thường bị hãm hiếp tập thể bởi những quân lính Para hay Pol Pot mà tuổi chúng chỉ mới độ chừng mười ba hay mười bốn tuổi mà thôi. Những kẻ mặt người dạ thú này đã coi thân xác người phụ nữ như một món trò chơi để giúp chúng tiêu khiển cho lấp đầy những giây phút thiếu vắng giống cái ở trong rừng hoang vu biên giới.

Trước khi hãm hiếp, chúng thường làm thủ tục chọc tức như mèo vờn chuột trước khi ăn thịt con mồi ngon lành ấy. Có cô gái bị chúng dùng súng nhắm bắn sớt qua hai tai để cho nạn nhân rú lên vì sợ hãi. Hễ nạn nhân càng khóc la thì bọn chúng càng cười sằng sặc và khả ố. Sau đó, chúng đè nạn nhân trên đất rồi căng hai tay và hai chân nạn nhân ra, rồi chúng cấu xé, cắn nát và hành lạc tập thể. Chưa hết, chúng còn dùng roi đánh vào nhũ hoa, hay lấy đèn pin, vỏ chai Coca Cola hoặc báng súng để nhét một cách hung bạo vào cửa mình của nạn nhân.

Có những trường hợp vợ chồng cùng đi vượt biên với nhau. Trong khi bọn lính Para hay Pol Pot dùng bạo lực để cưỡng hiếp người vợ thì chúng hạ nhục người chồng bằng cách bắt ông ta quỳ xuống. Rồi sau đó, chúng trói gô ông lại, rồi để một cái mác nơi ót của ông ta để cảnh cáo cho ông biết là chúng sẽ chặt đầu ông nếu ông ta kháng cự hay chống đối.

Thế rồi, khoảng hai chục tên lính người Cambodia đã đua nhau hãm hiếp bà vợ và cười đùa một cách khả ố và bỉ ổi. Người chồng phải chứng kiến những tiếng la hét đau đớn của vợ mình cùng với cảnh vợ bị làm nhục. Nếu ông lên tiếng chửi rủa hay thóa mạ chúng thì chúng sẽ giết chết ông bằng mác hay bằng súng ngay.

Lại có những trường hợp có những người phụ nữ đẹp, sau khi bị hãm hiếp còn bị giữ lại ở trong các làng Pol Pot hay trại Para để làm vợ hờ cho một trong những tên chỉ huy. Cô sẽ không bao giờ đến được bến bờ tự do và suốt đời làm nô lệ tình dục cho lãnh chúa của cô.

Có những cô khác kém may mắn hơn thì bị giam cầm và bị “thẩm vấn” vào những buổi tối với hàng chục tên lính dã man. Chúng hãm hiếp cô liên tiếp cho đến khi cô kiệt lực mà bịnh rồi chết.

Nói chung, dù là bọn lính Pol Pot hay bọn lính Para thì chúng đều tỏ ra dã man, độc ác và vô nhân tạo như nhau. Chúng làm nhục người phụ nữ Việt Nam và xem họ như thú vật. Ða số phụ nữ Việt khi đã quyết định đi bằng đường bộ là họ đã thấy rõ và chấp nhận chuyện nguy hiểm trên đường đi rồi. Nhiều phụ nữ khôn khéo thì khi bị hãm hiếp, họ làm bộ thích một trong đám lính man rợ đó để được yên thân, khỏi bị cả bọn hành hạ nữa. Còn những người khác không biết thì bị tập thể hành hạ, có khi họ không còn sức để đi nổi nữa.

Lối hành hạ của Pol Pot và Para đều như nhau: bắt trói thúc ké nạn nhân, lên súng dọa bắn chết, bắt nạn nhân cởi quần áo rồi chổng mông lên cao để bọn chúng thò tay móc hậu môn và chỗ kín. Tay chúng kịch cợm nên khi chúng móc mạnh thì nạn nhân đau đớn vô cùng.

4. Bị cướp bóc:

Các người tị nạn bị xét đến cả trăm lần, bất cứ một đứa con nít thuộc lính Pol Pot hay Para mất dạy nào cũng có thể làm phiền mình được. Rồi sau đó, chúng mò xét cả quần áo, giày dép và các đồ vật dụng khác để moi tìm vàng bạc của nạn nhân.

5. Bị ăn uống đói khổ:

Về chế độ ăn uống thì chúng cho dân tị nạn ăn không đủ nên họ phải nấu cháo mà ăn cho đỡ đói.
Tại khu trại của Pol Pot có một vũng nước nhỏ như ao tù, đồng bào tị nạn phải ăn uống, tắm giặt, nấu cơm cũng từ nước ở vũng lầy đó. Vào những ngày mưa thì nước từ các vùng có phân người cũng chảy luôn xuống vũng nước ấy. Nhưng người tị nạn vẫn phải uống nước đó như thường vì không còn lựa chọn nào khác.

II. Hành động kêu cứu cho người tị nạn đường bộ:

Những thảm trạng vừa kể trên đã làm đau lòng những người còn có lòng nhân đạo. Với tính cách là một người tị nạn đường bộ vào năm 1980, vừa là nạn nhân vừa là người chứng, chúng tôi đã không ngừng vận động để cầu cứu và đưa tiếng kêu cứu của đồng bào tị nạn Việt Nam đến thế giới tự do.

Trong suốt sáu năm dài (1980-1986), chúng tôi đã tìm kiếm, phỏng vấn và ghi lại những câu chuyện thương tâm của các người tị nạn Việt Nam, ở các trại tị nạn đường bộ khác nhau. Loạt bài này đã được đăng trên báo Tin Việt vào những năm 1984, 1985 và 1986.

Sau đó chúng tôi lại nhận được hàng trăm lá thư viết tay của đồng bào từ một số trại tị nạn gửi về, nhiều nhất là trong năm 1994.

Từ đấy, tôi vẫn mong mỏi có dịp được xuất bản tác phẩm này vì đó là một chứng liệu trung thực và hùng hồn nhất để nói lên nỗi cơ cực và niềm đau khổ của người tị nạn Việt Nam. Họ đã hy sinh tất cả để đổi lấy tự do. Họ ra đi vì muốn tìm lại quyền làm người, tìm nhân phẩm của con người, chứ không phải vì lý do kinh tế.
Ước vọng lớn nhất của chúng tôi là tác phẩm này có thể giúp cho các thế hệ con cháu hay những người ngoại quốc hiểu thật rõ về một giai đoạn lịch sử đặc biệt vô tiền khoáng hậu của người Việt chúng ta trên đường đi tìm kiếm tự do và nhân quyền.

Trong cộng đồng của chúng ta, đã có nhiều tài liệu viết về thảm trạng của người tị nạn đường thủy, nhưng hầu như có rất ít tài liệu viết về thảm trạng của người tị nạn đường bộ. Mong rằng những cố gắng của chúng tôi sẽ để lại một số tài liệu lịch sử về người tị nạn đường bộ cho ngày sau.

III. Chính sách cưỡng bức hồi hương:

Cuối tháng sáu 1996, sự kiện cưỡng bách hồi hương đã kết thúc với việc Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) rút đi và cắt giảm toàn bộ sự giúp đỡ bằng vật chất và tinh thần. Chúng ta đã thấy nhiều người tị nạn can đảm mổ bụng tự thiêu, thắt cổ hay tự tử để phản đối sự đối xử tàn bạo và vô nhân đạo của một số các quốc gia ở vùng Ðông Nam Á. Những cái chết bi thương nhưng oai hùng ấy là những bằng chứng hùng hồn cho thế giới thấy người Việt thà chết hơn là sống mất tự do.

Trong quá khứ, đã có hàng chục ngàn đồng bào bị ép lên máy bay hay tàu thủy để trở về cố hương cho dù tính mạng của họ có thể bị đe dọa. Thế giới đã ngoảnh mặt đi dù rằng các cộng đồng người Việt trên khắp thế giới đã tích cực tranh đấu chống lệnh cưỡng bách hồi hương. Người Việt Nam đã biểu tình đòi quyền sống cho đồng bào mình tại các tòa đại sứ của các quốc gia liên hệ. Người Việt đã đến tòa Bạch Ốc, Quốc Hội Hoa Kỳ để kêu cứu cho đồng bào mình.

Việc làm tốt đẹp của người Việt trên thế giới đã có kết quả rực rỡ. Chính phủ và Giáo Hội Thiên Chúa Giáo nước Phi Luật Tân đã quyết định cho khoảng hai ngàn đồng bào tị nạn Việt Nam được ở lại sinh sống tại đất nước của họ. Ðây là một thắng lợi to lớn, không những cho người tị nạn mà còn cho tất cả người Việt ở khắp nơi trên thế giới. Ðoàn kết nhất trí, kiên trì tranh đấu, chúng ta đã thắng.

Ðối với người ngoại cuộc, chúng ta đã chứng tỏ sức mạnh của sự đồng tâm và lòng nhân ái đối với đồng bào. Ngoài ra, việc làm tích cực của chúng ta còn mang một tầm vóc quan trọng khác: tạo dựng một tương lai tươi sáng cho dân tộc qua việc nuôi dưỡng những thiếu nhi trong số hai ngàn người tị nạn ấy. Rốt cuộc đại đa số những người còn kẹt lại tại Phi Luật Tân cũng đã được giải quyết cho định cư tại Hoa Kỳ, sau một thời gian chờ đợi lâu dài.

IV. Kết Luận:

Cho dù chương trình cứu giúp người tị nạn Việt Nam không còn nữa nhưng vấn đề tị nạn sẽ không bao giờ chấm dứt. Nó đã bắt đầu từ ngàn xưa, tại mọi quốc gia. Ðiển hình là Thiên Chúa vừa lọt lòng mẹ đã là một người tị nạn đường bộ khi cha mẹ Ngài phải chạy trốn sự truy nã của ông vua Herode ích kỷ và độc ác. Những người hành hương (Pilgrims) tiên phong từ Anh quốc đến Mỹ quốc trên chiếc tàu Mayflower trong mấy thế kỷ trước đã là những người tị nạn đường thủy.

Trong ba mươi năm gần đây, ngoài những người tị nạn người Việt Nam, Lào và Cambodia còn có người tị nạn đến từ lục địa Trung quốc, từ Cuba, Kuwait, Haiti, Rwanda và nhiều nơi khác trên thế giới. Vấn đề tị nạn chỉ chấm dứt được khi nào xã hội hết bất công, lòng tham bị diệt trừ, quyền làm người được tôn trọng, lòng nhân ái và sự công bằng được thể hiện từ gia đình đến quốc gia và thế giới.

Hơn hai mươi hai năm sau khi hoàn tất thì tác phẩm Những Chặng  Đường Gian Khổ mới được ấn hành và ra mắt quý độc giả (1986-2008). Xin quý vị cùng chúng tôi thắp nén hương lòng cầu xin ơn siêu thoát cho các nạn nhân bất hạnh, và cho dân tộc Việt Nam của chúng ta được bình an, tự do và hạnh phúc.

Kim Hà,
14/01/2008

Print In trang | sendtofriend Email | back Trở về
  
Tin/Bài mới
Cn270: Cuối Cùng, Trái Tim Vô Nhiễm Của Mẹ Sẽ Toàn Thắng (2/12/2009)
Sự Bí Nhiệm Của Chuỗi Mân Côi (2/12/2009)
Lần Chuỗi Mân Côi Có Thể Ảnh Hưởng Đến Đời Sống, Các Linh Hồn, Và Biến Cố Của Thế Giới (2/11/2009)
Ðức Mẹ Lộ Ðức (2/11/2009)
Đền Thánh Quốc Gia Đức Mẹ Lộ Đức Tại Tiểu Bang Maryland-the National Shrine Of Our Lady Of Lourdes. (2/11/2009)
Tin/Bài cùng ngày
Vị Linh Mục Được Dẫn Đi Thăm Hoả Ngục Và Luyện Ngục (2/10/2009)
Father Jose: Life After Death Experience. (2/10/2009)
Đức Mẹ Hiện Ra Tại Lourde (lộ Đức), Nước Pháp (2/10/2009)
Hành Hương Đến Đền “lộ Đức Phương Đông” Để Cầu Nguyện Cho Sự Sống Và Chống Lại Vấn Nạn An Tử (2/10/2009)
Phép Lạ Lộ Đức Và Bác Sĩ Alexis Carrel (2/10/2009)
Tin/Bài khác
Giáo Dân Việt Nam Đặc Biệt Tôn Kính Đức Mẹ (1) (2/8/2009)
Audio Cùng Các Linh Mục Con Cưng Của Mẹ # 37 (chương 331-336) (2/8/2009)
Người Mẹ Kiện Bác Sĩ Vì Họ Vứt Thai Nhi Còn Sống Vào Thùng Rác. (2/6/2009)
Đức Mẹ Ở Giáo Xứ Bến Đá, Vũng Tàu, Việt Nam Chảy Nước Mắt Máu Ngày 24/1/2009 (2/6/2009)
Mẹ Tất Cả Mọi Người (2/5/2009)
MeMaria.org -- Từ 15/4/1999 lần truy cập -- Kim Hà [Valid RSS]
Copyright © 2011 www.memaria.org. All Rights Reserved. Powered by VNVN System Inc.
Best view with IE 7.0, Fire Fox, resolution 1024x768