Suy
Niệm Chúa Nhật IV Mùa Vọng –
Năm B
Thánh
Augustinô đã khẳng định: Thiên
Chúa dựng nên chúng ta, Ngài không
cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng
để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần
sự cộng tác của chúng ta”.
Thật
vậy, để thực hiện chương trình
cứu độ, suốt dọc theo chiều dài
lịch sử cứu độ, Thiên Chúa
luôn luôn mời gọi sự cộng tác
của con người: Ngài mời gọi sự
cộng tác của các tổ phụ; Ngài
mời gọi sự cộng tác của các
thủ lĩnh; Ngài mời gọi sự cộng
tác của các ngôn sứ…Ngài
mời gọi sự cộng tác chung của cả
dân tộc Do Thái; Ngài mời gọi
sự cộng tác riêng của từng
người…Đặc biệt, để thực
hiện lời hứa ban Đấng Cứu Thế
cho nhân loại, Ngài đã sai sứ
thần đến để mời gọi sự
cộng tác của một Trinh nữ tại
làng quê Nazarét. Trinh Nữ ấy tên
là Maria. Cuộc đối thoại giữa Sứ
thần và Trinh nữ được Thánh
Luca tường thuật lại trong đoạn Tin
mừng hôm nay (x. Lc 1, 26-38).
Cuộc
đối thoại bắt đầu bằng lời
chào của sứ thần Gabriel: “Mừng
vui lên, hỡi Đấng đầy ân
sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”(Lc
1, 28). Đây là một lời chào đặc
biệt, bởi vì sứ thần đã
không chào bằng tên thật của
Maria, nhưng bằng một tên mới đó
là tên: “Đấng
đầy ân sủng”.
Sứ thần còn thêm rằng:“Đức
Chúa ở cùng bà”.
Chính vì lời chào đặc biệt
nầy mà Trinh Nữ cảm thấy “bối
rối”.
Hiểu được sự bối rối của
Trinh nữ, sứ thần giải thích rằng:
“Thưa bà
Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp
lòng Thiên Chúa. Và này đây
bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai,
và đặt tên là Giêsu. Người
sẽ nên cao cả, và sẽ được
gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức
Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người
ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người.
Người sẽ trị vì nhà Giacóp
đến muôn đời, và triều đại
của Người sẽ vô cùng vô
tận.” (Lc
1,30-33). Trinh nữ hiểu rõ lời giải
thích của sứ thần, nhưng vì
Trinh nữ đã khấn giữ mình đồng
trinh, Ngài quý trọng đức Đồng
trinh hơn chức vụ làm Mẹ Thiên
Chúa. Vì thế, Trinh nữ mới hỏi
sứ thần rằng: “Việc
ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi
không biết đến việc vợ chồng!”
(Lc 1,34).
Thắc mắc
của Trinh nữ cũng là thắc mắc của
nhiều người qua mọi thời đại.
Nhưng thắc mắc đó đã được
Sứ thần giải thích một cách rõ
ràng rằng: “Thánh
Thần sẽ ngự xuống trên bà, và
quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp
bóng trên bà, vì thế, Đấng
Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi
là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét,
người họ hàng với bà, tuy già
rồi, mà cũng đang cưu mang một
người con trai: bà ấy vẫn bị mang
tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có
thai được sáu tháng. Vì đối
với Thiên Chúa, không có gì là
không thể làm được.” (Lc
1,35-37). Như vậy, việc Đức Mẹ thụ
thai và sinh con là việc của Chúa
Thánh Thần chứ không phải việc
của con người. Đối với Thiên
Chúa, không có gì là không
làm được. Cho nên, Đức Mẹ
sinh con mà vẫn đồng trinh. Khi hiểu
được lời giải thích của sứ
thần, Đức Maria đã sẵn sàng
thưa xin vâng: “Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Chúa cứ làm cho tôi như lời
sứ thần nói.”
(Lc 1,38).
Cuộc
đối thoại giữa Sứ thần và
Trinh nữ chấp dứt. Sứ thần đã
làm tròn sứ mạng Truyền Tin của
mình. Khi thưa “xin vâng”, Đức
Maria đã chấp nhận cộng tác với
Thiên Chúa trong chương trình cứu
độ nhân loại. Biến cố này
hết sức quan trọng vì làm thay đổi
cuộc đời của Đức Maria và
làm cho lịch sử cứu độ bước
sang một trang sử mới. Đối với Đức
Maria, từ một thiếu nữ bình thường
đã trở thành Mẹ Đấng Cứu
Thế. Đi liền với thiên chức làm
Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa
còn ban cho Mẹ ơn Vô Nhiễm thai, ơn
đồng trinh trọn đời và được
đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Đối với lịch sử cứu độ:
tiếng thưa “Xin vâng” của Đức
Maria làm cho lời hứa của Thiên Chúa
ngày xưa được ứng nghiệm,
Đấng Cứu Thế đã thực sự
xuống thế làm người.
Nhưng
tiếng “xin vâng” của Đức
Maria không chỉ thể hiện qua lời nói
trong chốc lát mà phải “trả
giá” cả cuộc đời của Mẹ.
Thật vậy, từ khi thưa tiếng “Xin
vâng”, Đức Maria bắt đầu bước
vào hành trình hy sinh đau khổ: mang
thai, bị Giuse hiểu nhầm, sinh con trong hang đá
nghèo hèn, đưa con trốn sang Aicập,
lạc mất con trong đền thánh, thấy
con vác thập giá, chứng kiến con bị
đóng đinh, chết trên thập giá
và bị người ta tháo đinh để
táng trong hang đá…Những đau khổ
đó là những lời thưa xin vâng
của Mẹ trong cuộc sống. Những đau
khổ đó cũng là sự cộng tác
của Mẹ với Chúa Giêsu trong việc
cứu độ nhân loại. Cho nên, Đức
Maria còn được gọi là Đấng
Đồng Công Cứu Chuộc.
Để
nuôi dưỡng Đức Giêsu và bảo
vệ Đức Maria, Thiên Chúa còn mời
gọi sự cộng tác của Thánh
Giuse. Cho nên, Thánh Giuse trở thành bạn
thanh sạch của Đức Maria và Cha nuôi
của Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu
bắt đầu hoạt động công khai,
Ngài mời gọi sự cộng tác với
Ngài bằng việc tuyển chọn và
huấn luyện một số người mà
chúng ta gọi là Tông đồ. Ngoài
các tông đồ còn có các
môn đệ và một số phụ nữ
khác…Trước khi về trời, Ngài
đã thiết lập Giáo hội để
Giáo hội tiếp tục thi hành sứ
vụ Cứu thế của Ngài. Trong Giáo
hội có đầy đủ mọi thành
phần: Giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân.
Tất cả được mời gọi cộng
tác với nhau và cộng tác vơi
Chúa để cứu độ thế giới
mãi cho đến tận thế.
Với
chúng ta ngày hôm nay thì sao? Tùy
vào khả năng và địa vị,
Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi
chúng ta cộng tác với Ngài.
Thứ
nhất, là người kitô hữu, mỗi
người chúng ta hãy cộng tác với
Thiên Chúa trong việc chu toàn bổn
phận khi lãnh nhận bí tích Rửa
tội là “từ
bỏ ma quỷ và tuyên xưng đức
tin”. Từ
bỏ ma quỷ là từ bỏ cuộc sống
trái với luật Chúa và luật Hội
thánh. Tuyên xưng đức tin không
chỉ trên môi miệng mà cần phải
thể hiện bằng chính cuộc sống
của mình. Thánh Giacôbê nói:
“Đức
tin không có hành động là đức
tin chết”
(Gcb 2,17).
Thứ
hai, là thành viên của gia đình,
chúng ta cộng tác với Thiên Chúa
bằng cách chu toàn bổn phận làm
chồng làm vợ, làm cha làm mẹ
và làm con cái. Tất cả các
thành viên trong gia đình đều
được mời gọi nên thánh.
Người làm chồng, làm cha có thể
noi gương Thánh Giuse. Người làm
vợ, làm mẹ có thể noi gương
Đức Maria. Người làm con có thể
noi gương Đức Giêsu. Nhìn vào
lịch sử Giáo hội còn biết bao
gia đình đáng cho chúng ta noi gương
và học tập. Chúng ta có thể
noi gương đời sống thánh thiện
của gia đình ông Louis Martin và bà
Zélie Guérin, thân mẫu của Thánh
Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Hai ông
bà có chín người con. Bốn người
chết trong thời thơ ấu, trong khi năm cô
con gái còn lại lần lượt vào
Dòng Kín và Dòng Thăm Viếng.
Cả Louis và Zélie được Đức
Thánh Cha Bênêđictô XVI phong chân
phước ngày 19 tháng 10 năm 2008, và
được Đức Thánh Cha Phanxicô
phong hiển thánh vào ngày 18 tháng
10 năm 2015.
Thứ
ba, là người con của giáo xứ,
mỗi người chúng ta được mời
gọi dùng khả năng của mình để
xây dựng, bảo vệ và phát triển
giáo xứ: Có những người được
mời gọi làm thành viên của Hội
đồng Mục vụ Giáo xứ; có
những người được mời gọi
làm thành viên của các ban đoàn;
có những người được mời
gọi làm thành viên trong các Hội
đoàn hay một tổ chức khác; cũng
có những người chỉ làm một
giáo dân bình thường nhưng luôn
hoàn thành các nhiệm vụ được
giao…Tùy khả năng và hoàn
cảnh, tất cả được mời gọi
để xây dựng, bảo vệ và phát
triển giáo xứ.
Ngoài ra, nếu những
ai giữ những chức vụ khác trong đạo
ngoài đời đều được mời
gọi cộng tác với nhau và cộng
tác với ơn Chúa để chu toàn
nhiệm vụ của mình để làm
sáng danh Chúa. Khi chúng ta thực hiện
tốt bổn phận người kitô hữu
và bổn phận của đấng bậc
mình là chúng ta đang cộng tác
với Chúa để cứu độ chúng
ta và cứu độ thế giới.
Lạy
Chúa, nhờ tiếng xin vâng của Mẹ,
nhân loại được đón nhận
Đấng Cứu Thế. Nhờ lời chuyển
cầu của Mẹ, xin cho mọi người
chúng con luôn biết thưa xin vâng trong
cuộc sống đức tin để Chúa
cũng đến với chúng con và qua
chúng con Chúa đến với mọi
người. Amen.
Lm.
Anthony Trung Thành
|