MeMaria.org
Radio Giờ Của Mẹ - Giờ Bình An - Giờ Tin Yêu - Giờ Hy Vọng
(714) 265-1512. Email: Kim Hà
banner
Google Search
memaria www  

Local Search
PayPal - The safer, easier way to pay online!
top menu :: mẹ maria :: tác giả và tác phẩm :: lm anton nguyễn văn độ
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
  
Hồng Ân Của Mẹ - Ảnh Tượng Mẹ
Thứ Tư, Ngày 4 tháng 7-2012

Ảnh Tượng Mẹ

Tác giả: Bửu Uyển

 

Trại cải tạo Nam Hà, tháng 5 năm 1979. Ngồi trầm ngâm bên cái lon bơ đã trống rỗng, tôi suy nghĩ xem mình sẽ làm gì với cái lon này: Làm cái gàu múch nước? Làm cái lò? Hay cắt ra làm lược? Làm dao? Làm muỗng?..Mọi dự tính đều không hấp dẫn lắm. Cuối cùng, tôi nghĩ: mình sẽ cắt một hình tượng Đức Mẹ, không chừng hay đấy. Tôi tự khen mình đã nghĩ ra một ý kiến ngộ nghĩnh.

Tôi bắt tay vào việc ngay. Sau khi cắt cái lon bơ ra thành một miếng nhôm bằng phẳng, tôi nhờ anh Khôi vẽ hình Đức Mẹ lên miếng nhôm. Anh ấy có hoa tay, vẽ đẹp, viết chữ cũng đẹp. Tôi đã kiên nhẫn cắt miếng nhôm theo đường vẽ của anh Khôi bằng cái cắt móng tay. Công việc này kéo dài gần 2 tháng. Miếng nhôm đã có hình dáng Đức Mẹ đứng dang hai tay, nhưng còn xấu xí lắm. Tôi lại nhờ anh Khôi sửa lại, vẽ mặt và vẽ áo cho Mẹ. Anh ấy cặm cụi mài, dũa, rồi vẽ suốt mấy ngày Chúa Nhật liền. Nhờ viết chữ đẹp, anh thường được Ban Quản Trại gọi lên văn phòng nhờ viết các khẩu hiệu. Trong những dịp ấy, anh lấy sơn đem về vẽ tượng Mẹ. Cuối cùng một ảnh tượng Đức Mẹ thật đẹp đã hòan thành. Mẹ đứng trên qủa địa cầu, mắt Mẹ nhìn xuống, hai tay Mẹ dang rộng ra như sẵn sàng cứu vớt đàn con khốn khổ của Mẹ. Anh Khôi, tác giả của bức tượng ảnh Mẹ, đã nói: “Tôi hòan thành tác phẩm này với trái tim của tôi.” Anh em Công Giáo trong phòng vui mừng và cảm động lắm.

Thật bất ngờ, sau đó vài ngày, cha Nguyễn Hiến Tân dòng Đồng Công từ trại A chuyển đến. Anh em Công Giáo bắt liên lạc ngay. Ngày Chúa Nhật kế đó, cha Tân đã giải tội cho nhiều anh em Công Giáo trong trại. Sau khi xin ý kiến của cha, “buổi làm phép” tượng Mẹ được dự định tổ chức vào Chúa Nhật sắp đến. Hôm ấy, anh em Công Giáo ở các phòng giam khác tụ họp đến phòng 16. Tượng Mẹ được đặt trên một hộp bánh qui – được phủ kín bằng khăn tay, phía trước đặt một bình hoa dại mà anh em đã hái ở ngoài đồng mang về từ hôm trước. Cha Tân trịnh trọng làm phép tượng Mẹ. Sau đó cha dâng Thánh Lễ. Anh em sốt sắng dự lễ và rước lễ – mỗi người được nhận một phần Mình Thánh Chúa lớn bằng hạt dưa. Chưa bao giờ chúng tôi tham dự Thánh Lễ một cách thành kính như vậy. Sau Thánh Lễ còn có “tiệc trà”, gồm có nước rau má nóng và ba gói mì ăn liền được bẻ ra chia cho nhau ăn. Chúng tôi không ai có thể quên được bần khí tin tưởng và trông cậy của Thánh Lễ ngày hôm ấy.

Đã trải qua bốn, năm năm bị giam giữ trong trại nên vấn đề kỷ luật chẳng ai mấy quan tâm lắm. Trong phòng ngủ, trên vách tường, anh em treo lủng lẳng đủ thứ: quần áo, xoong nồi, cần câu, bao bị, v.v...thế mà êm xuôi cả. Thấy vậy, chúng tôi quyết định treo ảnh Đức Mẹ lên vách tường cuối phòng. Từ hôm đó, mỗi đêm, anh em Công Giáo trong phòng tụ họp với nhau dưới chân tượng Mẹ, đọc kinh, cầu nguyện. Và cũng từ ngày đó, đời sống đức tin của anh em chúng tôi thăng tiến rất nhiều.

Nhưng sau đó một tên “ăn ten” nào đó báo cáo lên Ban Quản Trại về việc anh em chúng tôi sùng kính tượng ảnh Đức Mẹ. Vào một buổi sáng Chúa Nhật, cửa phòng vừa mở thì trung úy Kíp, dẫn hai cán bộ xồng xộc đi vào phòng, đến ngay chỗ treo tượng ảnh Mẹ và lấy mang đi. Hắn hăm dọa sẽ trừng phạt nặng nếu ai còn tái diễn “việc mê tín dị đoan” này. Ngày Chúa Nhật đó là một ngày buồn thảm nhất cho anh em chúng tôi.

Thời gian lặng lẽ trôi qua. Một hôm, khi đang sắp hàng chuẩn bị đi lao động, tôi và ba anh khác được gọi ở nhà làm công tác đặc biệt. Công tác đó là dọn dẹp một nhà kho, chứa linh tinh đủ thứ đồ đạc: bàn ghế gãy, nồi niêu cũ, cuốc xẻng, cả cờ và khẩu hiệu nữa. Mọi thứ vất bừa bãi và lộn xộn, chúng tôi phải dọn dẹp lại cho ngăn nắp. Khi đang xếp lại mấy cái ghế gãy, tôi chợt thấy tượng ảnh Đức Mẹ nằm trong góc phòng. Tôi vô cùng ngạc nhiên và mừng rỡ, vội lấy dấu vào người để mang về. Đến trưa khi sắp hàng điểm danh để nhập trại, người tôi như lên cơn rét, chân tay cứ run bần bật, nhất là lúc đi ngang qua một cán bộ kiển tra trước khi vào trại. Nhưng may qúa, không có việc rắc rối gì xảy ra. Về phòng tôi lau chùi lại tượng ảnh Đức Mẹ cho sạch sẽ và treo lên chỗn cũ. Nhiều anh em trong phòng cười tôi “điếc không sợ súng.” Tôi sẵng sàng chấp nhận hậu qủa việc tôi làm. Tôi sung sướng thấy lại tượng Đức Mẹ quay về với anh em chúng tôi. Và rồi đêm đêm, anh em Công Giáo lại tụ họp dưới chân Mẹ để đọc kinh cầu nguyện...

Khoảng hai tháng sau, một hôm trung úy Kíp lại xuất hiện. Hắng hung hăng đi đến chỗ treo ảnh tượng Đức Mẹ, chúng tôi hồi hộp chờ đợi cơn thịnh nộ của tên trung úy Việt Cộng, từ lâu có tiếng là dữ dằn. Hắn đến thật gần, nhìn thật kỹ vào tượng Đức Mẹ. Bỗng nhiên mắt hắn mở to, miệng há hốc, hắn nói lẩm nhẩm mấy tiếng gì đó rồi quay trở ra. Hắn vội vã hấp tấp rời khỏi phòng và chạy như bị ma đuổi. Có lẽ hắn ngạc nhiên đến sợ hãi là tại sao bức tượng bị hắn lấy đi và đem quăng vào kho, nay lại tự động trở về chỗ cũ? Một điều lạ lùng là sau đó hắn không dám đả động gì đến tượng ảnh Đức Mẹ nữa. Cũng từ đó, câu chuyện tượng ảnh Đức Mẹ bị lấy đi, lại tự động trở về chỗ cũ được đồn đãi khắp nơi. Mà sự đồn đãi này do chính những công an của trại xì xầm với nhau mà ra.

Anh em trại viên chúng tôi hả hê lắm. Các ngày Chúa Nhật, anh em Công Giáo ở các phòng giam khác tiếp tục đến viếng ảnh tượng Mẹ, đọc kinh, cầu nguyện với Mẹ. Lúc nào dưới chân tượng Mẹ cũng có “lễ vật”, khi thì mộn nhánh hoa dại, khi thì một qủa cà chua, khi thì một vài mảnh giấy nhỏ viết lời tạ ơn, xin ơn với Mẹ.

Từ ngày có ảnh tượng Mẹ, chúng tôi thấy ngày tháng tù đày có vơi đi phần nào khổ ải. Chúng tôi có một chút ước mong, ngày chóng qua để đến tối, chúng tôi sẽ được đến dưới chân ảnh tượng Mẹ, để được Mẹ an ủi. Niềm thương nỗi nhớ gia đình luôn dày vò anh em chúng tôi, nay cũng có phần nguôi ngoai. Thấm thoát, một năm cũ sắp hết. Anh em mong đến những ngày Tết để có những bữa ăn khá hơn ngày thường. Chiều 29 Tết năm ấy, anh em được phát mỗi người 2 cái bánh chưng. Dĩ nhiên là chất lượng rất kém, chỉ có nếp và ít đậu xanh làm nhân; song anh em vui mừng lắm, vì sẽ được ăn no. Chiều hôm ấy, cửa phòng giam vừa đóng lại, vài anh em đã vội đem bánh chưng ra ăn. Nhiều anh em khác thì thẫn thờ, thương cha, nhớ mẹ, thương vợ, thương con... nhất là những ngày năm hết Tết đến như thế này. Họ mơ một ngày Xuân nào đó, họ được mừng tuổi cha mẹ, được sum họp với vợ con trong tiếng phaó giao thừa rộn rã...nhưng chỉ là giấc mơ. Những tiếng thở dài đâu đó buồn bã.

Đến gần nửa đêm, bỗng nghe anh Phú ú ớ la, rồi vật mình, vật mẩy. Vài anh em chạy đến xem; thì ra anh Phú bị bội thực. Anh đã ăn hơn một cái bánh chưng. Lâu nay đói thường xuyên, tối nay ăn nhiều qúa, nên anh không thở được. Anh em túm lại tìm cách cứu chữa cho anh Phú. Người thì cạo gió, người thì xoa bóp. Có người bày phải chọc cổ cho anh Phú ói ra mới có thể cứu được. Mọi phương pháp đều được mang ra áp dụng nhưng không có hiệu qủa. Hơi thở của anh Phú càng lúc càng khó khăn, tắc nghẽn và yếu dần. Anh Cẩn trưởng phòng, quyết định kêu cấp cứu. Một cán bộ trực trại đến hỏi: “Anh nào bệnh gì vậy?” Anh trưởng phòng mô tả bệnh tình của anh Phú và yêu cầu đem anh ấy đi cấp cứu ngay. Nhưng cán bộ trực trả lời:”Bệnh đó dù có mang đi bệnh viện cũng không cứu được. Thôi để đấy sáng mai tính.” Khi quay lưng đi hắn còn nói với lại:”Bệnh đó có trời mới cứu.”

Anh em trong phòng tiếp tục làm mọi cách để cố cứu chữa cho anh Phú. Bấy giờ anh Phú thở rất yếu và đứt quãng. Anh em nhìn nhau lắc đầu, nghẹn ngào. Tôi chợt nghĩ đến Đức Mẹ, vội kéo tay anh Nam, anh Phát, 3 chúng tôi qùy trước tượng Đức Mẹ, cùng nhau đọc kinh Kính Mừng. Sau mỗi kinh Kính Mừng là một lời cầu nguyện, khẩn thiết van nài Đức Mẹ cứu anh Phú. Không biết chúng tôi đã đọc kinh và cầu nguyện bao lâu, bỗng nghe vài anh em reo lên:”Anh Phú thở được rồi.” Sau đó lại nghe anh Phú nôn oẹ, Trong phòng ồn ào hẳn lên. Ai cũng vui mừng khi thấy cơn bệnh của anh Phú có hy vọng cứu được. Sau khi uống chút nước nóng có pha ít gừng, và được anh em tiếp tục xoa bóp, hơi thở của anh Phú tương đối nhẹ nhàng hơn và anh đã ngủ yên cho đến sáng. Hôm sau, anh đã ngồi dậy được và có thể đi lại trong phòng. Anh được anh em kể lại diễn tiến của cơn bạo bệnh của mình đêm qua, anh rất cảm động. Anh đi quanh phòng cám ơn từng người một. Nhưng khi anh Phú biết chúng tôi đã tha thiết cầu xin Đức Mẹ cứu anh thoát chết, anh xúc động lắm. Dù anh không có đạo, nhưng tôi thấy nhiều lần anh đứng trầm ngâm trước ảnh tượng Mẹ. Có lẽ anh biết bệnh trạng của anh, trong hoàn cảnh này, chẳng có một phương thuốc nào có thể cứu được anh, ngoại trừ “phép lạ” mà Đức Mẹ đã ban cho anh, như tên cán bộ đã nói:”Bệnh đó có trời mới cứu được.”

Mấy ngày sau, anh Phú ngỏ ý muốn theo đạo. Thế là một lớp giáo lý tân tòng được kín đáo tổ chức. Lớp học chỉ có 2 học viên, anh Phú và anh Cảnh. Sau hơn bốn tháng học giáo lý, hai anh đã được cha Tân “khảo hạch”. Cha rất vui lòng và quyết định sẽ ban phép Bí Tích Rửa Tội cho hai anh vào Chúa Nhật sắp đến – Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, 15 tháng 8 năm 1979.

Hôm ấy chúng tôi bố trí người căn gác đàng hoàng. Nếu cán bộ xuất hiện phải báo động liền. Ám hiệu là hô to”Các anh trực nhật chuẩn bị đi lãnh cơm.” Hai anh Cảnh và anh Phú mặc bộ đồ “viá” nhất của mình, râu được cạo và tóc được chải gọn gàng – vì ngày thường chúng tôi ít khi để ý đến râu tóc của mình. Khá đông anh em Công Giáo tham dự Lễ Rửa Tội của hai anh. Sau khi lãnh nhận Bí Tích, hai anh Phú và Cảnh được rước Mình Thánh Chúa lần đầu tiên trong đời.

Sau Thánh Lễ, một tiệc trà “linh đình” được dọn ra, gồm có: cháo tôm khô, mỗi người được nửa chén, 5 gói mì ăn liền bẻ ra chia nhau ăn. Lại có tráng miệng, do anh Cảnh khỏan đãi: mỗi người được một muỗng café đường cát trắng.

Từ đó, đêm đêm, dưới chân tượng Mẹ, có thêm 2 người con của Mẹ, anh Phú và anh Cảnh, cùng các anh em khác đọc kinh, cầu nguyện.

Một đêm nọ, nghe tiếng động lạ, tôi giật mình thức giấc. Phản ứng tự nhiên của tôi là nhìn về phía tượng Đức Mẹ. Tôi thấy anh Ba đang qùy trước tượng Đức Mẹ, mặc dù đêm đã khuya. Hôm sau, chúng tôi đi gặt lúa, khi gặt xong anh đội trưởng xin cho anh em được tắm sông vì gặt lúa ngứa ngáy, khó chịu lắm. Sau khi tắm xong, anh em sắp hàng điểm danh về trại, nhưng anh đội trưởng đếm mãi vẫn thiếu một người. Người thiếu là anh Ba. Một số anh em đoán là anh Ba đã bị chìm đâu đó dưới sông. Riêng tôi, tôi biết anh Ba đã vượt trại. Ban Quản Trại đã phái nhiều toán công an đi lùng kiếm, nhưng không tìm thấy anh Ba. Một tháng sau, một anh em được gia đình từ trong Nam ra thăm nuôi, cho biết anh Ba đã vượt biên bằng đường bộ qúa Thái Lan, hiện đang ở trại Sikiew chờ thanh lọc.

Từ vài tuần nay, anh em bàn tán về nguồn tin, sẽ có một số anh em trại viên được di chuyển vào Nam. Không biết lành dữ thế nào. Việc gì đến phải đến. Một buổi sáng Chúa Nhật, cán bộ trực trại đọc tên những anh em nằm trong danh sách di chuyển vào Nam, nhưng không biết đến trại nào. Tám mươi phần trăm anh em sẽ di chuyển vào Nam. Còn tôi lọt tên, vẫn ở lại trại Nam Hà. Đa số anh em Công Giáo đều nằm trong danh sách đi Nam, vì vậy anh em đề nghị để họ mang tượng Đức Mẹ theo. Trước khi di chuyển, anh em phân công tác cho anh Phát phụ trách giữ tượng Đức Mẹ. Anh ấy cẩn thận bọc tượng Đức Mẹ trong một bao lynon, ngoài làm một khung tre để che chở cho khỏi bị móp méo. Vào buổi chiều, anh em được di chuyển ra ga Phủ Lý để lên xe lửa xuôi về Nam, tượng Đức Mẹ cũng theo đàn con bất hạnh của mình đi về Nam, để Mẹ tiếp tục an ủi, cứu giúp họ trong những lúc hoạn nạn. Sau đó chúng tôi được biết tượng Đức Mẹ đã đến trại Gia Trung với đàn con của Mẹ.

Năm 1996, khi được tha về, tôi đã liên lạc được với nhiều anh em ở trại Gia Trung, hỏi thăm về bức tượng của Mẹ, nhưng không ai biết người nào đã cất giữ. Tôi cố gắng tìm anh Phát, nhưng không biết anh lưu lạc phương nào.

Tượng Đức Mẹ dù thất lạc nơi đâu, nhưng Mẹ luôn ở bên cạnh các con, nhất là những người con khốn khổ của Mẹ, để an ủi, che chở, cứu giúp và yêu thương họ. Loài người chúng ta may mắn và hạnh phúc biết bao vì chúng ta luôn có Mẹ Maria, Mẹ Hằng Cứu Giúp.

 

 (còn tiếp....)
Print In trang | sendtofriend Email | back Trở về
  
Tin/Bài mới
Chúa Giêsu Là Ánh Sáng, Suy Niệm Lễ Nến, Lm Antôn Nguyễn Văn Độ (1/29/2017)
Hãy Hối Cải, Vì Nước Trời Đã Gần Đến (suy Niệm Của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ) (1/22/2017)
Chính Ngài Là Con Thiên Chúa (suy Niệm Của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ) (1/14/2017)
Suy Niệm Lễ Kính Thánh Gia, Lm Antôn Nguyễn Văn Độ (12/27/2016)
Suy Niệm Lễ Vọng Giáng Sinh, Lm Antôn Nguyễn Văn Độ (12/20/2016)
MeMaria.org -- Từ 15/4/1999 lần truy cập -- Kim Hà [Valid RSS]
Copyright © 2011 www.memaria.org. All Rights Reserved. Powered by VNVN System Inc.
Best view with IE 7.0, Fire Fox, resolution 1024x768