MeMaria.org
Radio Giờ Của Mẹ - Giờ Bình An - Giờ Tin Yêu - Giờ Hy Vọng
(714) 265-1512. Email: Kim Hà
banner
Google Search
memaria www  

Local Search
PayPal - The safer, easier way to pay online!
top menu :: mẹ maria :: đề mục chính :: lịch sử
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
  
Ls: Câu Chuyện Ptan # 11: Cô Con Gái Qúa Giang Đêm Mồng Một Tết.
Thứ Ba, Ngày 3 tháng 1-2017
Cô Con Gái Qúa Giang Đêm Mồng Một Tết.


Chiếc thuyền nhỏ mang theo hơn năm mươi người, một nửa là đàn bà và
con nít, ra khơi hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một
chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của Nauy trên đường từ Nhật sang
Singapore cứu vớt. Hai ngày sống trên tàu chúng tôi có cảm giác như
đang ở trên một thiên đàng. Tất cả đều được tận tình hỏi han chăm sóc.
Chúng tôi cảm thấy vừa mừng vừa xót xa khi nhận ra thế gian này vẫn
còn có đầy ấp tình người. Họ là nhừng kẻ xa lạ, không cùng màu da, màu
tóc, không cùng ngôn ngữ, mà lòng thông cảm yêu thương họ đã dành cho
chúng tôi lớn lao biết đến dường nào. Trong lúc những "người anh em"
cùng một nhà thì lại hành hạ đuổi xô chúng tôi đến bước đường cùng để
phải đành lòng bỏ nước mà đi. Với ân tình đó chúng tôi chọn Vương quốc
Nauy là quê hương thứ hai để gới gấm phần đời còn lại của mình và vun
đắp tương lai cho mấy đứa con nhỏ dại.

Sau gần một năm ở trại tị nạn, gia đình chúng tôi được đi định cư. Khi
bầu đoàn thê tử như một bầy nai vàng ngơ ngác bước xuống phi trường
Oslo, được nhiều người đón tiếp, trong đó lại có cả mấy ông nhà báo và
đài truyền hình nhà nước phỏng vấn, quay phim . Gốc nhà quê, nên tôi
cũng chẳng biết họ quay phim để làm cái gì. Trước khi về nhà, chúng
tôi còn được mời vào một nhà hàng Tàu, và tha hồ gọi bất cứ thức ăn
nào mình thích.

Đến khi bước vào ngôi nhà, được bà trưởng phòng xã hội trao cho một
chùm chìa khóa, dẫn đi một vòng xem phòng ốc đã được trang trí xong
nội thất, cái bếp và cả cái tủ lạnh có sẳn đầy đủ thức ăn nước uống,
một cái TV màu. Mọi thứ đều mới tinh. Sáu đứa con và hai đứa cháu họ
của tôi thì ngồi mân mê mấy cái bàn học, và mấy cái ba lô có đầy đủ
sách vở trong đó. Trước khi ra về bà giới thiệu chúng tôi một cô nhân
viên của bà, và một cô giáo ở lại hướng dẫn chúng tôi xử dụng mọi thứ
tiện nghi trong nhà, và mỗi ngày sẽ đến đưa gia đình chúng tôi đi mua
sắm, khám bệnh, làm răng, còn cô giáo thì đặc trách lo việc học hành
cho mấy đứa nhỏ. Khi tất cả ra về, tôi nằm dài dưới sàn nhà và chợt
khám phá ra rằng mình quả là may mắn được đến định cư ở một nước Bắc
Âu xa lạ nhưng thơ mộng và có quá rộng tấm lòng này, mà lúc xuống biển
ra đi chắc chẳng có ai bao giờ nghĩ tới.

Buổi tối, cơm nước xong, cả nhà quây quần trước cái TV. Thằng con trai
lớn ra điều mới học được văn minh, bấm tới bấm lui tìm đài. Cả đám bất
ngờ nhìn thấy dung nhan của mình trên màn ảnh. Thì ra chương trình
phóng sự. Họ đang kể về gia đình chúng tôi: <"những công dân mới của
Nauy, mà ông bố đã từng ở tù nhiều năm, giống nhiều người Nauy bị nhốt
trong các trại cải tạo của Đức quốc xã, cái thời Hitler làm mưa làm
gió ở Âu Châu, và đã can đảm dắt theo sáu đứa con và hai đứa cháu nhỏ
vượt đại dương trên một chiếc thuyền đánh cá mong manh" . Nghe họ ca
ngợi mình mà tôi xấu hổ. Dù gì tôi cũng là kẻ bỏ nước tha phương, với
họ, ít nhiều gì cũng là một cành tầm gởi. Còn chuyện vượt biển, vượt
biên, đến bước đường cùng thì ai cũng phải liều mạng thế thôi, chứ có
hàng triệu người còn can đảm gấp vạn lần tôi. Nhiều người đi bằng
đường bộ, trèo núi, băng rừng, lội suối, bơi sông, qua Cam Bốt, Thái
Lan, để vài năm sau mới đến được Singapore. Và dĩ nhiên đã có biết bao
nhiêu người chẳng bao giờ tới bến.

Cũng vì cái chương trình phóng sự bất ngờ này, mà sau đó, mỗi ngày gia
đình chúng tôi phải tiếp nhiều người khách không mời, và nhận đủ thứ
quà. Trong số đó, đặc biệt có một người đàn bà Việt Nam, mà lúc bà mới
bước vào nhà, chúng tôi cứ tưởng là người Nhật, hay là người Tàu gì
đó, khi nhìn thấy cái vẻ quí phái đặc biệt của bà. Tôi nghĩ có lẽ
không có người Việt Nam nào sống ở cái xứ Bắc Âu xa lạ này từ lâu để
có được nét đẹp của một người con gái đông phương pha lẫn âu tây ở cái
tuổi còn trẻ như bà. Sau đó tôi bất ngờ thú vị khi bà tự giới thiệu
tên là Huyền-Trân Thomassen, hiện là giảng sư môn nhân chủng xã hội
học taị trường đại học Oslo, chồng bà là người Nauy, hiện đang làm đại
sứ tại Mexico. Bà không muốn bỏ nghề bà yêu thích, hơn nữa bà vẫn còn
tiếp tục nghiên cứu về ngành này, nên không theo chồng mà ở lại Nauy
với hai đứa con. Lúc nhỏ bà theo cha sang sống ở Thụy Sĩ, khi cha bà
là đại sứ của VNCH tại đó. Người chồng của bà, cũng thuộc một gia đình
có truyền thống ngoại giao. Cha của ông cũng một thời là đại sứ của
Nauy tại Thụy Sĩ. Hai người con của hai ông đại sứ quen nhau từ khi
học chung một trường trung học và làm đám cưới sau khi tốt nghiệp đại
học tại thủ đô Bern, một năm trước khi miền Nam Việt Nam thất thủ.

Tôi rất ngưỡng mộ người đàn bà trẻ này. Rời Việt nam từ lúc 12 tuổi,
nhưng bà nói tiếng Việt rất lưu loát, hiểu biết rất nhiều về văn học
Việt nam, từ truyện Kiều của Nguyễn Du, đến bài thơ Hai Sắc Hoa TyGôn
của TTKH. Điều đặc biệt hơn hết là bà rất quí mến và giúp đỡ tận tình
người đồng hương. Gia đình tôi cũng mang nặng khá nhiều ơn nghĩa của
bà.



Những ngày sống hạnh phúc ở quê người, nhìn con cái ngày một lớn lên
và đang có cả một bầu trời xanh bao la trước mặt, lúc nào tôi cũng
chạnh lòng nhớ lại cái thời mình khốn khó và những bạn bè xưa. Tôi
thấy mình nợ nần nhiều người mà không biết làm sao trả được. Trong số
này, người mà tôi thường nghĩ tới nhiều nhất và ân hận chẳng giúp được
điều gì là Nguyễn Thượng Tâm, người đồng đội và cũng là đứa em kết
nghĩa của tôi.



Tâm ra trường sau tết Mậu Thân. Về trình diện đơn vị tôi khi vừa tròn
18 tuổi. Măc dù còn rất trẻ, nhưng đuợc đào tạo từ lúc còn nhỏ tại
trường Thiếu Sinh Quân nổi tiếng ở Vũng Tàu nên Tâm là một hạ sĩ quan
gương mẫu trong kỷ luật và gan dạ trong chiến trường. Tâm hiền lành và
rất ít nói. Nhưng không phải vì vậy mà tôi trở thành thân thiết với
Tâm và hai thằng kết nghĩa anh em, nếu không có buổi sáng mồng một Tết
năm 1969, khi đơn vị chúng tôi tạm dừng quân trong một ngôi làng hoang
đổ nát nằm sâu giữa những động cát nơi giáp ranh hai tỉnh Bình Thuận
và Bình Tuy lúc trước.

Dù đang hành quân, nhưng biết hôm nay là mồng một Tết, tôi thức dậy
thật sớm, thay bộ đồ trận mới, đi một vòng chúc tết anh em. Ngày đầu
năm, nằm giữa một khu hoang tàn không một bóng người, chắc ai cũng
chạnh lòng nhớ tới gia đình. Chiếc radio từ một căn lều poncho nào đó
đang phát ra tiếng hát nỉ non của ca sĩ Duy Khánh, trong bản nhạc Xuân
Này Con Không Về của Trịnh Lâm Ngân, làm lòng tôi càng thêm lắng
xuống. Đến cuối ngôi làng, tôi bỗng giật mình khi nghe tiếng sụt sùi.
Lại gần tôi mới nhận ra Tâm. Anh ta đang quì lạy trước một cái bàn thờ
được kê bằng cánh cửa sổ của căn nhà nào sập xuống. Trên bàn thờ dã
chiến, tôi thấy có mấy cái hoa rừng cấm trong cái bi đông nước, hai
bát cơm bằng gạo sấy và một lon guigoz có lẽ chứa nước trà hay canh
nấu bằng lá giang hay lá tàu bay gì đó. Tâm khấn vái một lúc, quay lại
bất ngờ nhận ra tôi. Tâm đưa tay chào và cũng như mọi khi, không nói
một lời nào. Có lẽ Tâm biết là tôi đã đứng im lặng ở đây từ lâu lắm.
Tôi bước tới nắm chặt tay Tâm, kéo anh đứng lên. Tâm vội rút tay ra
lau nước mắt. Tôi đến trước bàn thờ vái một vái, rồi vỗ vai Tâm:

- Em cúng bố mẹ à. Sao đầu năm mà buồn quá vậy em.

- Không, bố em còn ở ngoài Bắc, em không biết là còn sống hay đã chết.
Mẹ em thì đã qua đời lúc em còn bé lắm. Nhà em ở tận Ý Yên, nhưng bố
em đi làm xa, nên phải gởi hai anh em em xuống nhà ông chú ở Hà Nội
học, rồi theo gia đình chú ấy xuống tàu há mồm vào Nam luôn .

- Còn anh của em bây giờ ở đâu? Tôi hỏi.

- Anh ấy chết rồi. Anh là sĩ quan thủy quân lục chiến, tử trận đúng
ngãy mồng một tết Mậu Thân ở ngay Sài gòn . Hôm nay là giổ đầu của anh
ấy.

- Anh em tên gì?

- Nguyễn thượng Minh, khi chết anh vừa mới lên trung úy.

Tôi giật mình. Cái tên Nguyễn thượng Minh làm tôi nhớ ngay đến một
thằng bạn cùng tên hồi còn tiểu học. Tôi hỏi Tâm:

- Vậy có phải em là cháu của thầy giáo Nguyễn Thượng Cầu?

- Dạ phải, nhưng chú Cầu đã chết lâu rồi. Tâm trả lời rồi nhìn tôi ngạc nhiên.



Năm 1954, tôi đang học lớp nhì trường huyện Vạn Ninh. Nhập học được
vài tháng, thì thầy hiệu trưởng Nguyễn công Tố dắt ba đứa học trò lạ
vào lớp giới thiệu với cô giáo Kiệt rồi dặn dò đám học trò chúng tôi :

- Hôm nay trường nhận thêm những em học trò mới, trong đó có ba em vào
lớp này. Tất cả các em phải biết yêu thương và giúp đỡ những người bạn
này, vì họ đã vừa phải bỏ quê hương, gia đình ngoài miền Bắc, di cư
vào đây. Đó cũng là lời kêu gọi của Ngô Thủ Tướng.

Hai thằng con trai và một đứa con gái cúi đầu chào cô giáo rồi quay
xuống chào chúng tôi bằng thứ tiếng lạ hoắc khó nghe. Thằng lớn con
nhất được cô Kiệt chỉ cho ngồi dãy bàn cuối lớp, ngay phía sau tôi.

Đến giờ ra chơi, bọn tôi bu quanh "phỏng vấn" nó đủ điều. Tên nó là
Nguyễn Thượng Minh. Nó và thằng em nhỏ hơn bốn tuổi, nhà ở quê, mẹ
chết sớm, ông bố đi làm xa, nên phải gởi anh em nó xuống Hà Nội ở nhà
ông chú để học hành, hơn nữa ông lại là thầy giáo. Khi có lệnh di cư,
ông chú không liên lạc được bố nó, nên dắt hai anh em nó xuống tàu há
mồm vào Nam luôn, rồi được chính quyền phân phối đến định cư ở quê
tôi, Vạn Giã, cùng với hơn mười gia đình khác . Nó bảo vài hôm nữa ông
chú nó cũng sẽ được sắp xếp cho vào dạy lớp ba trường này, thay cho
một ông thầy thuyên chuyển đi nơi khác.

Nó lầm lì ít nói, chắc ngại cái tiếng Bắc Kỳ xa lạ của nó. Nhưng không
phải vì điều đó mà làm cho tôi ghét nó, và đã có nhiều lần đánh lộn
với nó nữa. Lý do chính là nó đánh bi rất giỏi, giành mất giải quán
quân của tôi trong lớp. Nó đánh bi khác với chúng tôi. Chúng tôi để
viên bi lên đầu ngón tay giữa rồi bắn đi, còn nó đặt viên bi trong
lòng bàn tay và bắn đi bằng ngón tay cái. Vậy mà nó ăn tôi sạch túi.
Bọn tôi bảo là nó ăn gian, không được chơi kiểu bắc kỳ của nó mà phải
chơi theo kiểu trung kỳ của bọn tôi. Nhập gia phải tùy tục. Nó cô đơn
một mình nên chịu thua, phải trả lại cho tôi tất cả viên bi nó thắng
ngày hôm đó. Vậy mà hai hôm sau nó chơi trở lại, dĩ nhiên với cái kiểu
hoàn toàn mới lạ với nó, nhưng nó vẫn thắng tôi oanh liệt. Cuôc đấu bi
này bây giờ không phải chỉ giữa cá nhân hai thằng: tôi với nó, mà giữa
hai miền nam-bắc, cho nên học trò trai gái cả trường bu quanh làm khán
giả. Tôi thua trắng tay, mất luôn chức vô địch từ lớp năm đến bây giờ.
Dĩ nhiên là tôi ức lắm. Điều ghê gớm hơn nữa, là chỉ có cuối tháng đầu
tiên nó đứng hạng ba trong lớp, lên nhận bảng danh dự sau tôi, nhưng
kể từ tháng thứ nhì trở đi nó đều chiếm hạng nhất. Tôi đâm ra hận nó,
có nó là tôi mất tất cả. Mấy lần tôi nhại tiếng Bắc chọc quê nó, nó
cũng chỉ cười, tôi nghe lời xúi của lũ bạn, bảo nó rờ sau "đít" coi có
còn tòn ten cọng rau muống nào không, nó chỉ im lặng . Có lần bọn tôi
xô nó ngã, nó chỉ cười, đứng dậy rồi phủi bụi trên áo quần. Tôi thua
nó, nhưng cố làm ra vẻ tự mãn: "nó vẫn chỉ là một anh hùng cô đơn,
không có ai chơi với nó".

Đùng một cái nó nghỉ học. Chẳng có ai biết lý do. Nhưng rồi vài ngày
sau nó tới trường, nhưng không phải để học mà để bán bánh mì và cà
rem. Cô giáo và bạn bè hỏi, nó khóc và bảo là bà thím, sau khi cãi vã
với chú nó một trận, không nuôi hai anh em nó nữa, nó phải tự "khắc
phục" để còn nuôi một thằng em nhỏ. Hôm đó bọn tôi nhiều thằng cũng
khóc theo với nó. Chờ cho tất cả vào lớp, tôi ở nán lại chỉ để ôm nó
và nói một lời xin lỗi về những điều đã qua. Nó nhìn tôi thân thiện,
và bảo là nó chưa hề để tâm tới điều ấy. Tôi "tâm phục khẩu phục"nó.
Nó còn nhỏ mà thông minh và thánh thiện hơn tôi nhiều.

Tôi bèn làm ngay một cuộc "quảng cáo" cho bánh mì và cà rem của nó, vì
vậy hôm nào nó mang mọi thứ tới trường là bán sạch ngay trong giờ ra
chơi buổi sáng. Sau đó tôi còn kêu gọi một cuộc lạc quyên gíup nó: gạo
, tiền xu , tiền cắc, áo quần, có thằng còn mang tới cho nó cả buồng
chuối và một trái mít nữa.

Rồi nó cũng được chính quyền giúp đỡ, tôi nghĩ như thế, nên vài tuần
sau nó trở lại lớp học, và chỉ bán bánh mì trong giờ ra chơi. Nó vẫn
học giỏi, vẫn đứng đầu lớp, nhưng lần này nó không còn là anh hùng cô
đơn nữa mà nó có đông đảo bạn bè, mà thằng thân nhất chính là tôi.

Ông chú nó, thầy giáo Nguyễn thương Cầu, cũng đã vào trường dạy lớp
ba, nhưng bây giờ anh em nó không còn ở chung với ông chú nữa, mà chỉ
đến thăm ông vào những cuối tuần. Có khi nó dắt tôi đi theo. Vì vậy
tôi mới bíết ông thầy, chú nó sợ bà vợ Bắc kỳ còn hơn sư tử, nên chẳng
dám bênh vực nhiều anh em nó, mặc dù ông rất đau lòng xót xa khi bọn
nó phải dọn ra ở ké nhà một gia đình người di cư khác.

Tôi mất mẹ, cha tôi cũng đi làm xa, nên tôi thông cảm hoàn cảnh của
Minh, nên thường đưa anh em nó về nhà ông bà nội tôi và chơi với đám
anh em họ hàng của tôi.

Khi xong tiểu học, tôi vào Nha Trang học trung học, cũng là lúc phải
chia tay nó. Bởi Minh cũng vừa theo một số người di cư vào tận khu
định cư Phước Tỉnh nào đó ở trong nam, người ta bảo trong ấy làm ăn
khấm khá hơn ở quê tôi nhiều lắm. Từ đó, tôi không gặp lại nó, mặc dù
trong ký ức tuổi ấu thơ của tôi, lúc nào hình ảnh nó cũng in lên đâm
nét



Không ngờ hôm nay, giữa chiến trường xa xôi này tôi lại bất ngờ gặp
lại thằng em duy nhất của Minh, và lòng tôi lắng xuồng khi biết nó
cũng từng là lính đánh giặc và đã hy sinh đúng ngày này năm trước:
ngày mồng một Tết. Cái ngày mà lời chúc Tết của ông Hồ Chí Minh trên
đài phát thanh Hà Nội chính là cái mật lệnh "Tổng Công Kích Têt Mậu
Thân" để giết hại bao nhiêu người vô tội, đặc biệt hàng vạn người ở
Huế bị chôn sống. Cũng là cái ngày người ta nhận diện được bọn trí
thức, sinh viên phản trắc, đã giết hại bao nhiêu thầy, bạn của chính
mình.



Sau đó, tôi rút Tâm về làm việc bên cạnh tôi, phụ tránh toán quân báo
gồm toàn những người lính trẻ. Chúng tôi yêu thương nhau như anh em.
Rồi vào một đêm trăng sáng, dưới sự chứng giám của đất trời, tôi đã
nhận Tâm là đứa em kết nghĩa, sau lần Tâm liều mình cứu tôi thoát chết
trong một cuộc phục kích ở Thiện Giáo. Đổi lấy sư an toàn cho tôi, Tâm
phải mất hai ngón tay của bàn tay trái và nằm bệnh viện hơn một tháng
để được giải phẩu lấy một mãnh đạn nằm trong sâu trong thanh quản. Sau
khi xuất viện, Tâm phát âm tương đối khó khăn. Được hội đồng giám định
y khoa xếp vào loại không còn khả năng chiến đấu, Tâm có thể chọn về
một đơn vị hành chánh hay tiếp vận nào mà Tâm thích, nhưng Tâm một mực
chối từ và nằng nặc đòi trở lại đơn vị cũ. Tâm xác nhận là mình vẫn
còn khả năng chiến đấu, hai ngón tay của bàn tay trái và giọng nói khó
khăn một chút không gây trở ngại nhiều cho một người lính chiến
trường. Cuối cùng Tâm được toại nguyện.

Tôi vừa vui mừng vừa cảm động khi Tâm trở về trình diện. Tâm bảo sống
chết gì em cũng muốn ở bên anh. Vì gia đình em có còn ai nữa đâu. Đơn
vị này là gia đình của em. Tôi sắp xếp cho Tâm một công việc tạm thời
ở hậu cứ để tiếp tục chửa bệnh. Chỉ sau vài tháng giọng nói của Tâm
gần trở lại bình thường. Tâm nghe lời tôi xin vào khoá Sĩ Quan Đặc
Biệt ở Thủ Đức. Tâm được ưu tiên thu nhận vì gốc TSQ.

Ra trường đúng vào mùa hè đỏ lửa 1972, Tâm lại xin trở về đơn vị cũ,
lúc này đang ngày đêm nằm trong lửa đạn ở mặt trận Kontum. Năm tháng
sau, tôi bị thương, được tản thương về QYV Pleiku nằm điều trị gần một
tháng . Xuất viện, được điều về Phòng Hành Quân. Cả tháng tôi không
gặp lại Tâm, nhưng ngày nào chúng tôi cũng liên lạc trên hệ thống vô
tuyến.

Cuối năm 1973, chiến trường lắng dịu. Tâm xin phép về Sài gòn cưới vợ.
Vợ Tâm là cô bạn nhỏ ngày xưa trong cùng một viện mồ côi. Bây giờ là
cô giáo. Hai người găp lại và tình yêu nẩy nở trong thời gian Tâm học
ở trường Thủ Đức. Cả vợ chồng tôi đều có mặt trong ngày cưới, và làm
chủ hôn bên họ nhà trai. Đám cưới xong, tôi vận động xin cho vợ Tâm
được chuyển lên dạy tại một trường tiểu học nằm trong thành phố
Pleiku, để vợ chồng được gần gũi nhau hơn.

Đầu tháng 3/1975 Ban Mê Thuột thất thủ, bản doanh Bộ Tư lệnh SĐ 23 BB
bị tràn ngập. sau một phi vụ bắn nhầm. Ông Tư Lệnh Phó cùng ông tỉnh
trưởng Đắc Lắc bị bắt. Hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 44 được trực thăng
vận nhảy xuống đầu tiên ở Phước An, quận duy nhất còn lại của tỉnh Đắc
Lắc, nhằm vừa ngăn chặn địch quân tràn xuống Khánh Dương theo Quốc Lộ
21, vừa tái chiếm thị xã Ban Mê Thuột khi tình hình cho phép. Tâm có
mặt trong toán quân đầu tiên này. Tôi không gặp được Tâm nhưng có liên
lạc nói chuyện vài lần trong máy vô tuyến. Tâm rất đau lòng khi phải
bỏ vợ và đứa con gái ba tuổi trên Pleiku, trước khi gởi gấm cho anh
trung sĩ tiếp liệu đại đội cố dắt theo cùng đoàn quân triệt thoái về
tỉnh lộ 7, bây giờ không biết ra sao. Tâm khẩn khoản nhờ tôi tìm mọi
cách liên lạc và giúp vợ con mình. Tôi lấy cái tình anh em kết nghĩa
mà thề với Tâm là tôi sẽ cố gắng hết sức mình. Không ngờ, đó là một kế
hoạch triệt thoái tồi tệ nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, đã
làm mất biết bao nhiêu sinh mạng, kéo theo sự sụp đổ cả miền Nam. Ra
tận Tuy Hòa, đứng đón dòng người tả tơi, nét mặt còn đậm nỗi kinh
hoàng, họ vừa trải qua và chứng kiến biết bao nhiêu cái chết thê thảm
để được đến bên này bờ con sông Ba nhuộm máu, tôi nghĩ là tôi chẳng
còn có cơ hội nào gặp lại vợ con Tâm. Trở lại Khánh Dương, đúng lúc
Phước An thất thủ và đơn vị của Tâm đã phải tan hàng, tôi gặp lại vị
chỉ huy của Tâm ở Dục Mỹ, ông xác nhận là trung úy Nguyễn Thượng Tâm
đã nằm lại trên đỉnh đồi Chu Cúc, khi chiến đấu tới viên đạn cuối cùng
rồi tự sát trước một biển người của địch quân tràn lên chiếm giữ.



Hơn sáu tháng định cư ở Nauy, cả nhà tôi lúc nào cũng miệt mài để sớm
hội nhập vào quê hương mới. Thời gian qua nhanh quá. Mới đây mà chúng
tôi cũng đã tập tành tổ chức ngày lễ Giáng Sinh và ăn cái tết Tây đầu
tiên theo truyền thống của Nauy. Sau đó bận bịu đi học đi làm, và cũng
chẳng có cuốn lịch Âm lịch nào để biết ngày nào là Tết Ta, Nguyên Đán.
Một buổi tối vợ chồng tôi đang ngồi cãi nhau về thời điểm giao thừa để
thắp một nén hương tưởng nhớ ông bà, thì điện thoại reo. Bà Huyền-Trân
Thomassen gọi, mời cả nhà chúng tôi tối mai lên ăn tết với gia đình,
chồng bà từ Mexixo cũng mới trờ về. Bà cho biết bây giờ đã là sáng
mồng một Tết bên Việt Nam. Thì ra, chúng tôi tệ quá, mới rời khỏi Việt
Nam hai năm mà không còn nhớ ngày tết và tổ chức mừng Tết như bà. Tôi
cám ơn và nhận lời bà xong, vội vàng thắp mấy nén hương tạ tội ông bà.
May mắn ngày mai là thứ bảy.

Bà biết gia đình chúng tôi có tới mười người mà chỉ có một cái xe Ford
vừa nhỏ vừa cũ, nên bà đặt một chiếc taxi tám chỗ ngồi lại đón chúng
tôi. Bà xã tôi chỉ huy bầy con gái trên chiếc taxi, còn tôi lái xe chở
đám con trai chạy theo sau. Trời thật lạnh, tuyết rơi trắng cả bầu
trời . Chúng tôi phải chạy gần một tiếng đồng hồ mới tới nhà bà. Bà ở
trong một ngôi biệt thự khá xinh, cách trường đại học Oslo, nơi bà
dạy, chừng năm phút lái xe. Trong phòng khách bà trang trí giống như
tết ở Việt Nam, đặc biệt có cả một cành mai thật to (một loài hoa Bắc
Âu nở hoa vào mùa đông, nhìn giống như hoa mai) trong một cái bình sứ
lớn, nằm ở giữa nhà. Chồng bà rất phúc hậu, và nói được một ít tiếng
Việt. Khi giới thiệu ông với chúng tôi bà đùa:

- Hoàng đế Chế Mân của tôi đây.

- Không, tôi là Trần Khắc Chung. Ông vừa đưa tay bắt tay tôi vừa đùa.

Ông ta khá am tường về lịch sử Việt nam. Ông cũng biết khá nhiều và có
những nhận định khá công bình về cuộc chiến Việt nam. Ông cho biết là
lúc cuộc chiến Việt Nam đang ác liệt , khi ấy ông là trưởng ban ngoại
giao của Quốc Hội Nauy, đã phản đối kịch liệt những nhóm tả khuynh và
đặc biệt là những nhận định và việc làm của ông Olaf Palma, thủ tướng
Thụy Điển. Người đã hô hào ủng hộ Bắc Việt và tuyên bố sẳn sàng chấp
nhận cho binh lính Mỹ đào ngũ đến dung thân ở nước ông. Khi chiến
tranh Việt Nam kết thúc, nhìn hàng triệu nguơì phải bỏ nước ra đi, ông
vừa kịp phản tỉnh thì cũng bị ám sát chết.

Bữa ăn còn có cả dưa hành, thịt kho và bánh chưng. Tôi phục bà và thấy
xốn xang nhớ nhừng ngày tết lúc tôi còn nhỏ ở quê nhà.

Ăn uống xong, bà còn lì xì bì thơ màu đỏ cho mấy đứa con và mấy đứa
cháu của tôi. Tôi đành phải ngượng ngùng xin lỗi vì không chuẩn bị kịp
quà cáp cho hai đứa con của bà. Nhưng bà rất khéo léo, khi bảo sự có
mặt của gia đình chúng tôi trong thời khắc đặc biệt này đã là một món
qùa vô giá, rất có ý nghĩa cho mẹ con bà.

Tôi thay mặt gia đình cám ơn, chúc tết ông bà và gia đình. Tôi cũng
nói lên lòng ngưỡng mộ của chúng tôi đối với một người đã xa quê hương
lâu ngày và lập gia đình với một người ngoại quốc mà vẫn còn giữ được
truyền thống và bản sắc văn hóa Việt Nam, trong lúc một số người mới
chân ướt chân ráo sang đây đã vội tập tành thành người bản xứ, muốn
quên hết nguồn cội của mình.



Chia tay bà lúc gần mười hai giờ đêm. Đường sá vắng tanh. Tuyết vẫn
rơi kín bầu trời. Không quen lái xe trên tuyết, tôi chạy thật chậm.
Khi đến trước khu đại học Blindern, tôi thấy có một người đứng dưới
tàng cây thông, đưa tay đón. Tôi dừng xe lại. Một cô gái chạy tới xin
quá giang về nhà, vì cô dự tiệc tối ra, đã gọi taxi khá lâu mà không
thấy tới.. Tôi bảo đứa con trai lớn của tôi ra ngồi ở băng sau, nhường
ghế trước cho cô gái. Khi cô lễ phép chào tôi, và bắt tay mấy cậu con
và cháu của tôi ngồi ở băng sau, tự giới thiệu tên Anita rồi ngồi lên
ghế, tôi mới nhận ra cô gái gốc Á đông, nhưng phát âm tiếng Nauy và
điệu bộ hoàn toàn như người bản xứ. Tôi ngạc nhiên khi thấy cô đang
run vì lạnh. Cô chỉ mặc một cái áo khoác mỏng. Tôi dừng xe, cởi cái áo
choàng bằng lông cừu choàng qua vai cô. Gương mặt cô bé xinh xắn dễ
thương, nhưng phảng phất buồn. Tôi hỏi cô bé đến từ nước nào. Cô cho
biết cô được cha mẹ nuôi người Nauy nhận mang về đây lúc chưa tròn ba
tuổi, nên cô chẳng biết gì. Sau này lớn lên, cô mới được cha mẹ nuôi
kể lại là cô được Cơ quan Bảo Trợ Nhi Đồng LHQ nhận từ một viện mồ côi
ở Việt Nam, vào năm 1975. Ông bà xin nhận cô làm con nuôi từ Cơ quan
này. Cô bé rất mong muốn được trở lại Việt nam một lần, để biết nơi
mình sinh ra và nhờ người tìm lại tông tích, mồ mả của cha mẹ ruột. Cô
sẽ xây mộ cho ông bà. Cha mẹ nuôi có hứa sẽ đưa cô về sau khi cô học
xong trung học, và khi nào việc xin visa vào Việt Nam dễ dàng hơn. Nhà
cô không xa nơi tôi ở, có lẽ không quá hai mươi phút lái xe. Khi qua
hết mấy khu rừng thông thanh vắng, cô chỉ ngôi nhà lớn nằm lưng chừng
trên một ngọn đồi, bảo tôi dừng lại phía dưới. Cô sẽ đi lên bằng con
đường tắc. Cô cám ơn tôi, cởi trả lại tôi cái áo choàng. Cô hỏi xin
tôi một mảnh giấy, viết địa chỉ xong rồi đưa lại cho tôi. Cô mời tôi
đến Lễ Phục Sinh ghé lại nhà cô chơi. Vì chỉ còn một ngày nữa cô phải
đi London tiếp tục theo học một năm chương trình trao đổi học sinh.
Cha mẹ nuôi của cô rất thích nói chuyện với người Việt Nam, nhất là
những người đã từng tham gia cuộc chiến. Tôi hứa với cô là thế nào tôi
cũng đến thăm cô cùng ông bà cha mẹ nuôi tốt bụng.

Về nhà, khi kể lại chuyện cô bé quá giang cho vợ và mấy cô con gái
nghe, tôi mới nhận ra một điều: sao tôi lại có duyên với những người
mồ côi đến thế. Suốt cả đêm hôm ấy tôi nằm trằn trọc nghĩ đến thân
phận mình và nhớ thật nhiều đến Nguyễn Thượng Tâm, người mà tôi đã
từng nhận làm đứa em kết nghĩa, nhưng mãi đến bây giờ vẫn chưa làm
tròn được lời thệ ước cuả mình.



Ðến Lễ Phục Sinh, nhớ lời hẹn, tôi rủ bà xã và hai cô con gái lớn đến
thăm cô Anita. Bây giờ là đầu tháng tư mà tuyết vẫn còn rơi trắng cả
bầu trời. Nhờ ban ngày nên tôi thấy rõ nhà cô hơn. Ngôi nhà có dáng
của một lâu đài, cổ kính, sang trọng. Chung quanh là một hàng thông.
Chủ ngôi nhà chắc đã trọng tuổi và giàu có. Ngần ngừ một lúc, tôi bấm
chuông. Đúng như tôi nghĩ, người mở cửa là một bà già khoảng trên bảy
mươi, nhưng còn khỏe mạnh và nói năng vui vẻ lịch thiệp. Bà ngạc nhiên
nhìn tôi, và hỏi tôi đến có việc gì bất ngờ mà bà không đuợc báo
trước. Tôi xin lỗi, giới thiệu tên mình và cho bà biết là tôi có hẹn
với cô Anita, con gái của bà, đến thăm cô ấy và vợ chồng bà. Có lẽ cô
Anita quên, không kể chuyện lại với bà. Bà tròn mắt ngạc nhiên :

- Anita nào ? vì đứa con gái duy nhất của chúng tôi đã chết rồi mà.

Bây giờ đến lượt tôi ngơ ngác. Tôi kể cho bà nghe chuyện tôi gặp cô
Anita trước cổng trường đại học hồi tháng hai, và cho cô quá giang về
đây lúc nửa đêm. Bà mời tôi vào nhà, chỉ cho tôi tấm ảnh treo trên
vách.

- Đây chính là cô Anita mà tôi đã gặp, trước khi cô trở lại London để
tiếp tục học. Tôi nói to như để xác nhận với bà. Bà nhìn tôi sụt sùi
hai dòng nước mắt.

- Ðúng rồi, sau lần về thăm nhà và cũng để khám bệnh ấy, thay vì trở
lại trường, con tôi phải vào bệnh viện, do một mảnh đạn nằm sâu trong
tim từ lúc cháu ba tuổi, và cháu qua đời sau đó một tuần. Trước đây,
bác sĩ có khám và chụp hình, nhưng bảo mảnh đạn nằm ở một vị trí khá
an toàn, và rất nguy hiểm nếu phải giải phẩu. Không ngờ cháu lại chết
vì chính mảnh đạn từ thời chiến tranh này.



Bà ra nhà sau lên tiếng gọi ông chồng, kể cho ông nghe câu chuyện tự
nãy giờ. Ông đến chào tôi, và bảo tôi chờ ông bà mặc áo lạnh rồi sẽ
dẫn tôi ra nghĩa trang, nằm không xa ở phía sau nhà, thăm ngôi mộ cô
con gái.

Ngôi mộ phủ đầy tuyết trắng. Bà đưa tay phủi lớp tuyết trên tấm bia,
hàng chử khắc sâu trên bia: ANITA NGUYEN HILDE. Nhìn tấm ảnh trên mộ
bia, tôi có cảm giác dường như cô cũng đang nhìn tôi mỉm cười. Tôi
đứng trươc mộ, chấp hai tay khấn nguyện một đôi điều. Ông bà chủ nhà
sụt sùi, bảo với tôi đó là cô con gái duy nhất mà ông bà hết lòng
thương quí. Từ khi cô ta qua đời, ông bà chẳng còn thiết tha bất cứ
thứ gì trên cõi đời này nữa. Đưa tôi trở lại nhà, ông châm củi thêm
vào lò sưởi, rót mời tôi một tách cà phê nóng. Ông bảo nếu cô không
chết thì mùa hè này ông bà sẽ đưa cô về thăm quê hương nguồn cội ở
Việt Nam. Riêng cha mẹ ruột của cô thật sự đã chết trong chiến tranh
rồi.

Dường như vừa nhớ lại một điều gì, ông đứng lên bước tới kệ sách, quay
lại nói vói tôi :

- Trong hồ sơ của con tôi, người ta có ghi chú: Khi hấp hối, mẹ cháu
có trăn trối nhờ người mang nó về một viện mồ côi mà bà quen. Bà có để
trong túi áo quần của đứa con một tấm hình khi vợ chồng bà làm đám
cưới. Sau tấm hình có ghi tên và đơn vị của ba cháu. Đó cũng là dấu
tích duy nhất về gốc gác của cô con gái nuôi yêu dấu của chúng tôi.

Tôi chưa kịp hỏi, ông đã đưa cho tôi tập album, và chỉ cho tôi một tấm
ảnh đen trắng ngã màu vàng sậm, được dán ngay ở trang đầu. Nhìn tấm
ảnh, tôi giật thót cả người, như đang bị mộng du vào một cõi xa xăm
nào đó: hai người trong tấm ảnh chính là vợ chồng Nguyễn Thượng Tâm,
người em mồ côi kết nghĩa mà chúng tôi đã lạc mất nhau trong những
ngày cuối của một cuộc chiến huynh đệ tương tàn.


Phạm Tín An Ninh

Vương Quôc Na-Uy
Print In trang | sendtofriend Email | back Trở về
  
Tin/Bài mới
Corinth Canal And Ancient Corinth (7/31/2018)
Hình Colosseum, Rome! (7/31/2018)
T​ Ản Mạn Đời Tha Hương : Mừng Ngày Hiền Mẫu (5/14/2018)
Tin/Bài khác
Tân Phúc Âm Hóa Hôm Nay (5/28/2014)
Nhớ Về Ông Bà Ngô Đình Nhu (2/9/2014)
Hồi-ký Của Bà Ngô Đình Nhu (2/9/2014)
Bí Ẩn Đại Hồng Thủy Và Con Tàu Của Noah (9/2/2012)
Tấm Gương Do Thái (7/20/2012)
MeMaria.org -- Từ 15/4/1999 lần truy cập -- Kim Hà [Valid RSS]
Copyright © 2011 www.memaria.org. All Rights Reserved. Powered by VNVN System Inc.
Best view with IE 7.0, Fire Fox, resolution 1024x768