Học hỏi Phúc âm: Chúa nhật 29 Thường
niên năm A
Lời
Chúa:
15Bấy
giờ những người Pharisêu đi bàn bạc với
nhau, tìm cách làm cho Ðức Giêsu phải lỡ lời mà mắc
bẫy. 16Họ sai các môn đệ của họ
cùng đi với những người phe Hêrôđê, đến
nói với Ðức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết
Thầy là người chân thật và cứ sự thật
mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy
không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. 17Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có
được phép nộp thuế cho Xêda hay không
?”
18Nhưng Ðức Giêsu biết
họ có ác ý, nên Người nói: “Tại sao các người
lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! 19Ðưa đồng tiền nộp thuế
cho tôi coi!”
Họ liền đưa cho Người một
đồng bạc. 20Và
Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của
ai đây ?” 21Họ đáp: “Của Xêda”. Bấy giờ,
Người bảo họ: “Thế thì của Xêda, trả về
Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
Câu 1: Đọc Mát-thêu 22,15-16. Ai là
những người giăng bẫy để Đức
Giêsu phải lỡ lời ? Những
người Pha-ri-sêu và người thuộc phe Hê-rô-đê
là ai ?
TRẢ
LỜI: Đức
Giêsu vẫn đang ở trong khu vực Đền thờ,
tranh luận với các nhà lãnh đạo Do thái giáo (Xem Mát-thêu
21,23.45). Đặc biệt trong bài Tin Mừng này, Ngài phải
đối diện với nhóm Pharisêu, và hơn nữa, với
nhóm Hêrôđê (Mát-thêu 22,15-16). Hai nhóm này có khuynh hướng chính trị khác nhau.
Nhóm Pharisêu trên nguyên tắc là những người chống
lại việc nộp thuế cho Rôma, nhưng họ không
đi đến chỗ cực đoan như nhóm zê-lốt
ái quốc, là những người công khai chống lại
việc nộp thuế cho Rôma, thậm chí có khi dùng vũ lực.
Còn nhóm Hêrôđê là nhóm ủng hộ gia tộc Hêrôđê, một
gia tộc do đế quốc Rôma đặt lên để
cai trị dân Do-thái. Nhóm này
dĩ nhiên thân Rôma, ủng hộ việc nộp thuế,
nên đối lập với nhóm Pharisêu. Trong bài Tin Mừng
này, lạ thay cả hai nhóm trên đây lại liên minh với
nhau trong cùng một mục tiêu, đó là làm Đức Giêsu bị
mắc bẫy vì lỡ lời trong một vấn đề
nóng bỏng. Nhóm Pharisêu đã từng tìm cách giết Đức
Giêsu khiến Ngài phải lánh đi (Mát-thêu 12,14).
Ngài đã từng tranh luận với họ (Mát-thêu 15,1-14), và họ cũng đã từng “thử”
Ngài (Mát-thêu 16,1). Chúng ta không lạ gì khi giờ
đây họ giăng bẫy để Ngài lỡ lời, từ
đó có cớ tố cáo.
Câu 2: Lời nói đầu tiên của họ ở Mát-thêu
22,16 có phải là một lời khen thực
lòng không ?
TRẢ LỜI: Trước khi hỏi ý kiến Đức Giêsu về
chuyện nộp thuế cho Rôma, những người
Pharisêu đã nói lên một nhận xét khá dài về con người
Đức Giêsu (Mát-thêu 22,16). Những nhận
xét này phản ảnh đúng về nhân cách của Đức
Giêsu: một con người sống theo
sự thật, cương trực, không quỵ lụy ai.
Nhưng khi được thốt ra trên môi miệng của
họ, những lời này lại nhằm mục đích xấu,
đó là khích Đức Giêsu nói công khai và rõ ràng quan điểm
của mình về chuyện nộp thuế, từ đó khiến
Ngài rơi vào bẫy họ đã giăng ra, dù Ngài trả lời
thế nào đi nữa. Vậy đây không phải
là một lời khen thực lòng. Đó là một lời
nịnh đầy ác ý (Mát-thêu 22,18) của
“những kẻ đạo đức giả” (Mát-thêu
22,18).
Câu 3: Dưới thời Đức Giêsu, dân Do thái phải
nộp mấy loại thuế ? Trong bài
Tin Mừng này, người Pharisêu định nói đến
loại thuế nào ? Đọc Mát-thêu 22,17; 17,24-27.
TRẢ LỜI: Người Do thái phải nộp ba loại thuế:
thuế Đền thờ (Xem Mát-thêu 17,24-27); thuế gián thu
đánh trên hàng hóa, buôn bán…; và thuế thân đánh trên đầu
người lớn, cả nam lẫn nữ, những ai
không có quốc tịch Rôma. Loại thuế thứ
ba này (kênsos) là một thứ nộp cống, áp đặt
trên mọi dân tộc dưới quyền đế quốc
Rôma. Mỗi năm người Do thái phải nộp một
đồng denarius, giá trị bằng tiền lương một
ngày. Bài Tin Mừng chỉ có ý nói về loại
thuế thứ ba này mà Rôma bắt nộp từ năm 6 Trước
Công Nguyên, khi vùng Giu-đê-a trở thành một tỉnh của
đế quốc. Nhiều người
Do thái không chấp nhận nộp loại thuế này.
Có kẻ đã nổi dậy chống lại
như ông Giu-đa người Ga-li-lê.
Câu 4: Xê-da là ai ? Tại sao câu hỏi
của họ về chuyện nộp thuế cho Xê-da (câu
17) lại là một cái bẫy nguy hiểm cho Đức Giêsu ?
TRẢ LỜI: Câu hỏi về “có được phép nộp thuế
cho Xê-da hay không” là một câu hỏi nham hiểm. Trả lời
“có” hay “không” cũng đều phải chịu những hậu
quả tai hại. “Được
phép” có nghĩa là phù hợp với Luật Torah, phù hợp
với ý Thiên Chúa. Nếu Đức Giêsu bảo cứ
nộp thuế cho Xê-da (Xê-da là danh từ chung
để chỉ hoàng đế của đế quốc
Rôma), nhiều người Do thái sẽ phản ứng, vì họ
coi nộp thuế là một hành vi thần phục suy tôn mà
họ chỉ muốn dành cho một mình Thiên Chúa. Nhưng nếu
Đức Giêsu bảo không được phép nộp thuế
cho Xê-da, Ngài sẽ bị kết án là chống lại đế
quốc Rôma (Xem Lu-ca
23,2).
Câu 5: Đức Giêsu đã tránh được cái bẫy
này bằng cách nào ? Đọc
Mát-thêu 22, 18-20.
TRẢ LỜI: Đức Giêsu thừa biết cái bẫy này, biết
họ đang thử Ngài (Mát-thêu 22,18). Ngài đã tránh không trả lời câu hỏi này,
không nói “có” hay “không” được phép. Thay vào đó
Ngài xin họ một đồng tiền dùng để nộp
thuế thân, đồng denarius của Rôma. Có
thể một môn đệ của người Pharisêu
đã đưa cho Ngài đồng tiền ấy. Điều này cho thấy anh ta mang đồng tiền
Rôma trong người, và gián tiếp anh chấp nhận nộp
thuế cho người Rôma. Đức
Giêsu đã giả vờ hỏi về hình ảnh và danh hiệu
khắc trên đồng tiền này. Nhờ dòng chữ
khắc, ta biết là hình của hoàng đế Ti-be-ri-us, cai trị từ 14-37 sau CÔNG NGUYÊN. Chữ khắc
tạm dịch như sau: “Hoàng đế Tiberius, Con đáng
kính của Thần Linh Augustô, Thượng tế”. Nhiều
người Do thái cho rằng dòng chữ này có tính báng bổ,
vì coi hoàng đế Augustô như một vị thần linh.
Câu 6: Đâu
là ý nghĩa của câu “Hãy trả cho Xê-da những gì thuộc
về Xê-da” trong Mát-thêu 22, 21. Qua
câu này Đức Giêsu có nhìn nhận quyền của những
nhà cầm quyền không ?
TRẢ LỜI: Mát-thêu 22,21 là một câu nói nổi
tiếng và khó hiểu của Đức Giêsu để trả
lời cho câu hỏi về việc có nên nộp thuế
thân cho Rôma không. Trước cái bẫy này,
Đức Giêsu đã tránh trả lời “có” hay “không”.
Khi cầm đồng tiền có hình Xê-da trên tay,
đồng tiền của một người đang sử
dụng nó, Đức Giêsu chỉ nói “của Xê-da trả lại
(apodote) cho Xê-da.” Có vẻ Ngài không thấy chuyện nộp
thuế cho Xê-da có gì nghịch với Luật To-rah hay với
niềm tin vào Thiên Chúa. Bổn phận trần
thế có thể hài hòa với bổn phận đối với
Thiên Chúa. Các tác giả thánh sau này cũng đã theo chiều
hướng trên (xem Rô-ma 13,1-7; Phê-rô
2,13-17).
Câu 7: Đâu là ý nghĩa của câu: “Hãy trả lại
cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”.
TRẢ LỜI: “Của Thiên Chúa trả lại cho Thiên Chúa.” Đây là nhắc nhở quan trọng của Đức
Giêsu. Có những điều thuộc về
Thiên Chúa mà chúng ta phải tôn trọng. Có
những bổn phận đối với Thiên Chúa mà chúng
ta phải giữ nghiêm túc. Hơn nữa,
chúng ta không được quên vị thế trổi vượt
của Thiên Chúa trên Xê-da. Chúng ta cần cầu
nguyện phân định khi bị giằng co giữa những
bổn phận chính trị và tôn giáo. Không
phải lúc nào chọn lựa cũng dễ dàng. Cần
can đảm để trả lại cho Thiên Chúa điều
mà trần gian đã lấy mất.
Câu 8: Đọc sách Sáng thế 1,26-27.
Đâu là điều mang hình ảnh và danh hiệu của
Thiên Chúa ?
TRẢ LỜI: Nếu đồng tiền Rôma mang hình ảnh của
Xê-da, nên nó thuộc về Xê-da, và phải trả lại cho
Xê-da, thì mỗi con người chúng ta, mang hình ảnh của
Thiên Chúa (Sáng thế 1,26-27), nên thuộc về Thiên Chúa và phải
sống trọn vẹn cho Thiên Chúa.
GỢI Ý SUY NIỆM:
“Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì của
Thiên Chúa.” Theo
bạn có cái gì trên đời mà không phải là của Thiên
Chúa không ?”Trả lại cho Thiên Chúa”
nghĩa là gì ? Con người hôm nay
đã đánh cắp của Thiên Chúa những gì
?
|