HIỆP
SỐNG TIN MỪNG
CN
26 TN A – KÍNH TRỌNG THỂ LỄ MÂN CÔI
Cv. 1, 12-14; Gl. 4, 4-7; Lc 1,26-38
CÙNG MẸ LẮNG NGHE LỜI CHÚA VÀ XIN
VÂNG Ý CHUA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,26-38.
(c
26) Bà Ê-li-sa-bét có thai được
sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần
Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê,
gọi là Na-da-rét, (c 27) gặp một Trinh
Nữ đã đính hôn với một người
tên là Giu-se, thuộc nhà Đa-vít, Trinh
Nữ ấy tên là Ma-ri-a. (c 28) Sứ thần
vào nhà Trinh Nữ và nói: “Mừng
vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng,
Đức Chúa ở cùng bà”. (c 29) Nghe
lời ấy, bà rất bối rối, và
tự hỏi lời chào như vậy có
nghĩa gì. (c 30) Sứ thần liền nói:
“Thưa bà Ma-ri-a xin đừng sợ, vì
bà đẹp lòng Thiên Chúa. (c 31) Và này
đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai
và đặt tên là Giê-su. (c 32) Người
sẽ nên cao cả và sẽ được gọi
là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa
là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai
vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. (c 33)
Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp
đến muôn đời, và triều đại
của Người sẽ vô cùng vô tận”. (c 34)
Bà Ma-ri-a thưa
với sứ thần: “Việc ấy sẽ
xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến
việc vợ chồng !” (c 35) Sứ thần
đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống
trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao
sẽ rợp bóng trên bà. Vì thế
Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là
thánh, sẽ được gọi là Con Thiên
Chúa”. (c 36) Kìa bà Ê-li-sa-bét, người
họ hàng với bà, tuy đã già
rồi, mà cũng đang cưu mang một
người con trai: Bà ấy vẫn bị mang
tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai
được sáu tháng. (c 37) Vì đối
với Thiên Chúa, không có gì là không
thể làm được”. (c 38) Bấy giờ
bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ
của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như
lời sứ thần nói”. Rồi sứ
thần từ biệt ra đi.
2. Ý CHÍNH:
Câu chuyện truyền tin
của sứ thần Ga-bri-el cho đức trinh
nữ Ma-ri-a biểu lộ tình thương và
sự trung tín của Thiên Chúa trong công cuộc
cứu độ loài người. Thái
độ lắng nghe Lời Chúa, tìm
hiểu Ý Chúa và mau mắn “Xin Vâng” của
Đức Ma-ri-a chính là thái độ
mà các tín hữu cần học tập để
nhận được ơn cứu độ của Chúa
Giêsu.
3. CHÚ THÍCH:
-
(c 26) + Gáp-ri-en:
là một trong bảy
Tổng Lãnh thiên thần (x. Tb 12,15), trong đó ba
vị được nêu rõ tên trong Cựu
Ước là: Mi-ka-en, Ra-pha-en, và Gáp-ri-en. Tên
của các vị này có ý nghĩa phù
hợp với sứ mệnh của mỗi
vị như sau: Mi-ka-en
nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” (Đn
12,1), Ra-pha-en nghĩa là
“Thiên Chúa chữa lành” (Tb 3,17) và Gáp-ri-en nghĩa là “Anh
hùng của Thiên Chúa” (Đn 8,16).
-
(c 27) + Trinh nữ: Từ này không xác
định về đức trinh khiết của
Đức Ma-ri-a, vì trinh nữ đơn giản
chỉ là một cô gái chưa lấy chồng.
Sự thanh khiết của Đức Ma-ri-a
được khẳng định qua lời thưa
với sứ thần: “Việc đó xảy ra
thế nào được, vì tôi không biết
đến người nam” (Lc 1,34). Sở dĩ
trinh nữ Ma-ri-a được chọn cho thấy
lời tuyên sấm của I-sai-a về một trinh
nữ thụ thai và sinh con trai là Đấng Em-ma-nu-en,
nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đã được
ứng nghiệm nơi Đức Ma-ri-a (x. Is 7,14 ; Mt 1,23). +
Đã đính hôn: Từ khi
đính hôn, Giu-se và Ma-ri-a đã
được luật pháp công nhận là
vợ chồng, và con cái sinh ra trong thời
kỳ này được kể là con chính
thức của hai người. Tuy nhiên, theo phong tục
trong xã hội Do Thái thì việc kết hôn chỉ
hoàn tất khi họ đàng trai tổ chức
lễ cưới đón rước cô dâu
về nhà chồng (x. Mt 1,18). + Thuộc nhà
Đa-vít: Chi tiết này thêm vào
nhằm chứng minh Đức Giê-su là
Đấng Cứu Thế vì theo sấm ngôn của
I-sai-a thì Đấng Cứu Thế phát xuất
từ gốc là tổ phụ Giê-sê cha của
Đa-vít (x. Is 11,1) và nơi sinh của
Người là Bê-lem, quê hương của vua
Đa-vít (x. Mk 5,1). + Ma-ri-a: hay Mi-ry-am,
là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do
thái đương thời. Để phân biệt,
người ta thường thêm một biệt danh
sau tên gọi. Chẳng hạn: Ma-ri-a Mác-đa-la (x.
Lc 8,2-3); Ma-ri-a Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Ma-ri-a mẹ Gia-cô-bê
và Giô-xép (x. Mt 27,56); Ma-ri-a vợ ông
Cơ-lô-pát (x. Ga 19,25); Ma-ri-a mẹ Gio-an (x. Cv 12,12)
và bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su (x. Cv 1,14).
-
(c 28) + “Mừng vui lên”: Đây không
phải là cách chào giữa những
người dân bình thường, nhưng
là lời chào đặc biệt chỉ
dành cho những người được
gặp Thiên Chúa (x Dcr 9,9). + “Đầy ân
sủng”: Tước hiệu dành riêng cho
Đức Ma-ri-a, một người trong sạch
vẹn toàn. Ngài đã được
chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên
đã được Thiên Chúa ban
đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội và luôn có
Chúa ở cùng.
-
(c 29) + “Bà bối rối và tự hỏi”:
Khác với thái độ “bối rối
sợ hãi” của Da-ca-ri-a (x. Lc 1,12),
ở đây Ma-ri-a chỉ ngạc nhiên và băn
khoăn về ý nghĩa của lời Chúa
vừa mặc khải (x. Lc 1,34 và 2,19).
-
(c 31) + Giê-su: nghĩa là “Cứu
Chúa” (x. Mt 1,21) hay “Đấng Cứu Thế” (x.
Lc 2,11).
-
(c 32) + Con Đấng Tối Cao: Đây
là tước hiệu thường
được áp dụng cho các ông vua dòng
tộc Đa-vít. Qua câu này, sứ thần
ám chỉ Đức Giê-su là vua thuộc
nhà Đa-vít. Người sẽ cai trị
Ít-ra-en, và triều đại của
Người sẽ vững bền mãi mãi.
-
(c 34) + “Việc ấy xảy ra cách nào,
vì tôi không ‘biết’ đến người nam!”:
“Biết” theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa
là “sự giao hợp vợ chồng”.
Câu thắc mắc của Ma-ri-a không chứng
minh việc Ma-ri-a đã khấn hay có ý
khấn giữ mình đồng trinh như có
người lầm tưởng. Qua câu này,
Ma-ri-a chỉ thắc mắc làm sao thực
hiện được việc thụ thai ngay lúc
này được, khi mà Ma-ri-a mới chỉ
đính hôn để làm vợ thánh Giu-se
về luật pháp, và chưa được Giu-se
tổ chức rước dâu về nhà.
-
(c 35) + Sứ thần đáp: “Thánh
Thần sẽ ngự xuống trên bà...”: Sứ
thần giải thích cho Ma-ri-a hiểu việc thụ
thai của Ma-ri-a xảy ra do quyền năng Thánh
Thần, để ứng nghiệm lời tuyên
sấm của I-sai-a: Đấng Cứu Thế sẽ
do một gái đồng trinh thụ thai và sinh ra
(x. Is 7,14). + rợp bóng: Kiểu
nói nhắc lại sự kiện đã
từng xảy ra trong sa mạc, khi dân Do Thái
vượt qua sa mạc để về Đất
Hứa: Đức Chúa luôn hiện diện
giữa dân Người bằng cách cho
cột mây “rợp bóng” che phủ Nhà Tạm
và Lều Hội Ngộ (x. Xh 40,34-38). Ngoài ra,
“rợp bóng” cũng ám chỉ sự bang
trợ của Đức Chúa, giống như
chim phượng hoàng sải cánh bao phủ
và che chở con dân Ít-ra-en của
Người (x. Tv 17,8).
+ “Đấng Thánh” sắp sinh ra sẽ
là “thánh”: “Thánh” nghĩa là thuộc
về Thiên Chúa, được hiến “thánh”
dành riêng cho Thiên Chúa để thi hành
sứ mạng cứu thế.
-
(c 36) + Kìa bà Ê-li-sa-bét...: Sứ
thần chứng minh quyền năng của Thiên
Chúa qua việc bà chị họ Ê-li-sa-bét, tuy
đã cao tuổi và bị hiếm hoi, nhưng
đã được Thiên Chúa ban cho đặc
ân thụ thai con trai và tới nay bào thai đã
được sáu tháng tuổi.
-
(c 38) +“Vâng, tôi đây là nữ tỳ
của Chúa”: Khi tự nhận là
“nữ tỳ của Chúa”, Ma-ri-a biểu lộ
đức khiêm nhường và lòng tin yêu
sâu xa đối với Thiên Chúa. + “Xin Chúa
cứ làm cho tôi như lời sứ
thần nói”: Ma-ri-a đại diện nhân
loại để đón nhận ơn cứu
độ của Thiên Chúa. Thực vậy, ngay sau
lời thưa “Xin Vâng”, Thánh Thần
đã tác động làm cho Ma-ri-a thụ thai,
mà không cần tới việc tri giao vợ
chồng (x. Lc 1,34). Rồi Ngôi Lời “đã
xuống thế làm người”, nhập vào
bào thai ấy trở thành Đấng “Em-ma-nu-en”,
nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”
(x. Mt 1,23). Như vậy, Đức Giê-su chỉ có
một Ngôi là “Ngôi Con”, “Ngôi Hai” hay “Ngôi Lời” Thiên
Chúa, nhưng lại có hai bản tính:
vừa là Thiên Chúa vừa là
người phàm.
HỎI: Nội
dung thắc mắc
của Đức Ma-ri-a với sứ thần (x. Lc
1,34) và của ông Da-ca-ri-a trong Đền Thờ (x. Lc
1,18) có giống nhau không?:
ĐÁP: Cả hai cùng đưa ra
thắc mắc, nhưng trong hai tâm trạng khác
nhau: Thắc mắc của Da-ca-ri-a biểu
lộ tâm trạng hoài nghi về quyền năng
của Thiên Chúa, nên ông đã bị phạt
cấm khẩu, bị câm không thể nói
được. Sự cấm khẩu này
là dấu chỉ cho thấy bà Ê-li-sa-bét
chắc chắn sẽ có thai cách khác thường (x. Lc
1,20). Còn lời thắc mắc của
Đức Ma-ri-a biểu lộ tâm trạng tin
tưởng: Ma-ri-a muốn tìm biết thánh
ý Chúa để xin vâng. Do đó, Mẹ
đã được sứ thần ca tụng
là Đấng “đầy ân phúc hằng làm
đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Lc 1,30) và Mẹ
đã được bà chị họ Ê-li-sa-bét
khen ngợi là “diễm phúc, vì đã
tin lời Chúa phán sẽ được
thực hiện” (x. Lc 1,45).
4. CÂU HỎI: 1)
Thánh Kinh cho biết có mấy Tổng lãnh thiên
thần? Các Tổng lãnh thiên thần
được nêu đích danh là những ai?
Ý nghĩa của các tên gọi của các vị
ấy là gì? 2) Tại sao Thiên Chúa lại
chọn Ma-ri-a đang là một “Trinh nữ”
để làm mẹ Đấng Cứu Thế? 3) Khi
thưa “Xin vâng” và được thụ thai Đấng
Cứu Thế do quyền năng Chúa Thánh
Thần, Đức Ma-ri-a đã kết hôn
với thánh Giu-se chưa? 4) Câu thắc
mắc của Đức Ma-ri-a khác với
thắc mắc của ông Gia-ca-ri-a ra sao? 5)
Sứ thần muốn nói gì qua câu: ”Quyền
năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên
bà”?
II.SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin
Chúa cứ làm cho tôi như lời
sứ thần nói” (Lc 1,38).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GƯƠNG
NĂNG LẦN CHUỖI MÂN CÔI CỦA MỘT NHÀ BÁC HỌC
LỪNG DANH:
Trên
chuyến xe lửa đi Paris, có một chàng thanh niên
mặt mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Trong
toa đối diện với anh là một cụ già, tay cầm
tràng chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh.
Chờ tới khi cụ già đọc kinh xong, chàng trai lên
tiếng : "Cụ ơi ! Đến thời buổi này
mà cụ còn đọc thứ kinh chỉ dành cho đám
đàn bà con nít kia sao ?".
Cụ
già ngước nhìn chàng thanh niên ôn tồn trả lời :
"Cám ơn cậu, cậu trông có vẻ thông thái đó.
Vậy xin cậu cho tôi biết quan điểm của
cậu thế nào về khoa học và đức tin ?".
Thế
là chàng trai có dịp nói về bản thân : Anh là sinh viên đang
theo học năm cuối tại trường đại
học Bách Khoa tại thủ đô Paris; Anh khuyên cụ già hãy
thôi đọc mấy thứ kinh lẩm cẩm kia đi,
vì rồi đây khoa học tiến bộ sẽ xây
dựng một thế giới mới không cần
đến tôn giáo nữa. Rồi anh chàng bắt đầu
thao thao thuyết giảng cho cụ già về đề tài
khoa học và đức tin cả nửa tiếng
đồng hồ.
Cụ
già cứ im lặng chăm chú lắng nghe anh chàng nói. Đến
khi sắp tới ga về nhà, cụ mời anh khi nào
thuận tiện đến chơi nhà cụ tiếp
tục hướng dẫn cho cụ, rồi cụ trao cho anh
một danh thiếp.
Khi nhìn vào tấm danh thiếp, anh chàng có cảm
tưởng như từ trên trời rơi xuống, khi
đọc thấy tên và địa chỉ của một nhà
khoa học lừng danh mà anh luôn tâm phục khẩu phục
như sau : "Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Khoa Học Paris".
2) ĐẾN VỚI CHÚA GIÊ-SU NHỜ
MẸ MA-RI-A (AD JESUM PER MARIAM):
Vào một buổi
chiều đông lạnh giá, PHUN-TƠN (FULTON OURSLER), một tín
hữu bị mất đức tin bỏ nhà
thờ nhiều năm, đang trong tâm trạng
tuyệt vọng vì gặp quá nhiều vấn
đề khó khăn nan giải. Khi đi ngang qua
đại lộ Nhà thờ chính toà
của thành phố Nữu Ước,
tự nhiên ông cảm thấy có một sức
mạnh vô hình nào đó cuốn hút ông
vào nhà thờ và đẩy đến
quỳ trước tượng Đức
Mẹ. Sau một lát im lặng, Phun-tơn
tự nhiên đã thốt ra một lời
cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Ma-ri-a, có
thể chỉ một lát nữa thôi là con sẽ
lại đổi ý để tiếp tục bài
bác chế diễu các việc đạo
đức con đang làm để trở
lại con đường vô tín. Nhưng bây
giờ con cảm thấy tâm hồn thật bình an,
dù con đang gặp nhiều khó khăn nan
giải. Xin Mẹ cầu cùng Chúa Giê-su ban thêm
đức tin cho con”. Ngay lúc đó Phun-tơn
cảm thấy có một điều kỳ diệu đã
xảy ra nơi bản thân, biến ông trở thành
một con người mới: Ông đã có
lại đức tin vào Chúa ! Từ đây, ông luôn
sống kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a để
làm chứng cho Chúa Giê-su bằng một
cuộc sống khiêm nhường, cậy trông phó
thác và đầy vị tha nhân ái. Chính nhờ
Mẹ Ma-ri-a mà ông đã đến được với
Chúa Giê-su.
3) KINH
MÂN CÔI GIÚP CHIẾN THẮNG THÙ HẬN VÀ MANG LẠI HÒA BÌNH:
Trong
một giáo xứ nọ có hai thôn, nhưng lại đang tranh
chấp nhau về một mảnh đất nằm ở
giữa mà thôn nào cũng cho là đất thuộc thôn mình. Từ
chiến tranh lạnh là tranh cãi to tiếng đến chiến
tranh nóng mang gậy gộc ra đánh lộn nhau khiến cho
một số người của cả hai thôn bị u
đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ đã phải
đứng ra hòa giải. Buổi họp đi đến quyết
định hai bên đều đồng ý mảnh đất
giữa hai thôn ấy là đất chung của giáo xứ gọi
là "đất Đức Bà". Sau đó cha xứ cho
dựng một tượng đài Đức Mẹ Mân Côi tại
đây, để mỗi buổi tối, người
của hai thôn đều đến quây quần
trước đài Đức Mẹ lần hạt Mân Côi. Mọi
người gọi đài Đức Mẹ Mân Côi này là
đài Đức Mẹ Hòa Bình. Còn cha xứ thì gọi là
đài Đức Mẹ Chiến Thắng, vì Mẹ đã chiến
thắng các tranh chấp hận thù, chiến thắng sự
chia rẽ nhỏ nhen của ma quỷ để tái lập
hòa bình bền vững trong giáo xứ.
4) KINH MÂN
CÔI CHỮA LÀNH CÁC BỆNH TẬT VỀ THỂ XÁC VÀ TÂM
HỒN:
Tạp
chí Reader's Digest số ra tháng 4 năm 1991 có thuật lại
cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ Têrêxa Calcutta
và một thương gia người Mỹ như sau:
Trên chuyến máy bay từ Christiamy về
Thanasity, một thương gia trẻ tên là JIM CAISO ngồi
bên cạnh Mẹ Têrêsa và một nữ tu khác. Jim Caiso
nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ tu
thường được báo chí nhắc đến. Khi
những người khách cuối cùng đã yên vị trên
máy bay thì Jim thấy hai nữ tu lấy ra khỏi áo dòng
một chuỗi hạt Mân Côi và lâm râm đọc kinh. Tuy
không phải là người công giáo sùng đạo nhưng
Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn do sự
cầu kinh của hai người nữ tu. Khi máy bay đã
lên cao độ, Mẹ Têrêsa quay sang người thanh niên
hỏi: “Anh có hay lần chuỗi không?”
Anh trả lời: “Thưa không”. Nghe anh trả lời xong, thì
Mẹ liền cầm lấy tay anh, đặt chuỗi hạt
Mân Côi vào tay anh và nói: “Vậy thì anh hãy bắt đầu
lần chuỗi hằng ngày đi”.
Ra
khỏi phi trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng
chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta mới cho. Anh kể
lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ
Têrêsa và kết luận như sau: "Anh có cảm
tưởng như mình đã gặp một nữ tu
đích thực của Chúa".
Chín
tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một
người đàn bà là bạn của hai người
từ nhiều năm qua. Người đàn bà này được
bác sĩ cho biết đã bị ung thư tử cung. Theo
các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo
ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, lấy
ra chuỗi hạt Mân Côi của mẹ Têrêsa trao cho
người bạn và nói: “Chị cầm lấy cái này, nó
sẽ giúp cho chị”. Mặc dù không phải là người
Công giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay
đón nhận và trân trọng món quà quí giá ấy. Một
năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người
đàn bà vui vẻ cho biết bà đã khỏi bệnh
nhờ mang trong mình tràng chuỗi Mân Côi suốt một năm
qua. Giờ đây bà trao lại cho Jim để anh trao cho
người khác với hy vọng nó sẽ giúp người
khác được ơn chữa lành giống như mình. Vào
lúc đó, bà chị vợ của Jim cũng đang trong tình
trạng khủng hoảng sau ly dị, bà cũng muốn
mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà đã kể
lại rằng: “Hằng đêm, tôi đeo chuỗi hạt
vào người. Bấy giờ tôi đang cô đơn và tâm
hồn bất an. Nhưng từ lúc đeo chuỗi hạt,
tôi cảm thấy như mình đang nắm một bàn tay
thân yêu. Từ lúc đó, tràng chuỗi linh nghiệm ấy
đã nhiều lần được trao từ tay
người này đến người khác. Mỗi khi
gặp sự khủng hoảng hay bệnh tật nan y,
người ta thường gọi điện đến
Jim để mượn cho bằng được tràng
chuỗi ấy. Jim suy nghĩ: “Phải chăng tràng
chuỗi này có một sức mạnh lạ lùng, hay có
lẽ đúng hơn, tràng chuỗi của mẹ Tê-rê-sa có
một sức mạnh tinh thần ảnh hưởng trên những
ai thành tâm đeo cỗ tràng hạt ấy”. Về phần Jim,
anh chỉ biết điều này là hễ có người
nào ngỏ ý mượn tràng chuỗi, thì anh đều đáp
ứng vui vẻ, và lần nào anh cũng căn dặn
họ: "Khi nào không cần tới nữa thì hãy cho tôi xin
lại. Có thể sẽ có người khác cũng cần
đến nó".
Cuộc
sống của Jim cũng thay đổi từ ngày anh
gặp mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta. Khi nhớ lại mẹ Tê-rê-sa
đã mang tất cả hành lý chỉ trong một cái xách tay
nhỏ, thì anh cũng đơn giản hóa cuộc sống
của mình. Anh phát biểu như sau: “Tôi luôn xác tín rằng:
điều quan trọng ở đời không phải là lo
tìm kiếm danh vọng và tiền bạc, nhưng là làm
thế nào để chia sẻ tình thương cho tha nhân”.
4. SUY NIỆM:
1) LỊCH
SỬ LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI :
-
Vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước
Pháp. Thánh Đa-minh đã được Đức Mẹ
hiện ra trao cho tràng chuỗi Mân Côi như một khí
giới thiêng liêng hỗ trợ. Chính nhờ lối
sống đơn sơ khiêm hạ và sự nhiệt thành
rao giảng Lời Chúa của các tu sĩ dòng “Anh em
thuyết giáo”; Nhất là nhờ việc siêng năng lần
hạt Mân Côi của các tín hữu… mà chỉ sau một
thời gian ngắn, thánh Đa-minh đã cảm hóa đưa
được 150.000 người theo lạc giáo trở về
cùng Hội Thánh.
-
Năm 1511, đạo quân Hồi giáo phát xuất từ
Thổ nhĩ kỳ đã xâm lược Âu Châu, đi
đến đâu bọn chúng cũng đều ra tay thiêu
hủy làng mạc, tàn phá nhà thờ. Đức Giáo hoàng Piô
V đã kêu gọi thành lập đạo binh Thánh Giá trong nước
Ý và Tây Ban Nha. Ngài cũng kêu gọi mọi tín hữu công
giáo hợp ý bằng việc siêng năng lần hạt Mân
côi để xin Đức Mẹ giúp ngăn chặn
cuộc xâm lược của quân địch. Ngày 7 tháng 10
năm 1571, trong trận chiến quyết định
xảy ra tại vịnh Lepante. Với quân số ô hợp
vũ khí thô sơ và với số chiến thuyền ít
ỏi, thế mà đạo quân Thánh Giá đã chặn
đứng đà tiến và đánh tan hàng ngàn chiến
thuyền của đạo quân Hồi Hồi được
trang bị bằng vũ khí hùng hậu. Tại Roma, nghe tin báo
đạo binh Thánh Giá chiến thắng, Đức Giáo
hoàng đã nói với mọi người hiện diện : “Chúng
ta hãy tạ ơn Chúa”. Rồi về sau, ngài còn truyền thiết
lập lễ Mân côi hằng năm để tạ ơn
Chúa ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.
-
Vào năm 1917, nước Bồ Đào Nha đang trong tình
trạng suy thoái trầm trọng về mọi mặt: óc
bè phái và chia rẽ nội bộ trong Giáo Hội, kèm theo có nhiều
nhóm Tam Điểm đã nổi lên chống phá, khiến
nhiều nhà thờ công giáo bị phá hủy, nhiều linh
mục và tu sĩ bị bắt bớ. Nhưng đến
khi Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ em trên cây
sồi làng Fa-ti-ma. Khi hiện ra nhiều lần trên cây
sồi, Mẹ Ma-ri-a đã trao cho ba trẻ là Lu-xi-a,
Gia-xin-ta và Phan-xi-cô ba mệnh lệnh như điều
kiện để trái tim Mẹ chiến thắng. Ba
mệnh lệnh ấy như sau: “Một là cải
thiện đời sống; Hai là siêng năng lần
hạt mân côi; Ba là tôn sùng trái tim Mẹ”. Nhờ đó đất
nước Bồ đào Nha đã bước sang một
trang sử mới. Từ đây nhiều hội Mân côi đã
ra đời để hằng ngày cầu xin Đức
Mẹ chuyển cầu Chúa xuống muôn ơn lành, và
đất nước Bồ Đào Nha đã trở thành
quê hương của kinh Mân côi đến ngày nay.
2) KINH
MÂN CÔI GIÚP SỐNG “PHÓ THÁC” VÀ “XIN VÂNG” NHƯ MẸ MA-RI-A:
Hội Thánh muốn các tín hữu chúng
ta năng suy niệm và học tập noi gương Đức
Mẹ trong cuộc hành trình đức tin là: thái độ
khiêm nhu, tin cậy phó thác vào tình thương của Chúa quan
phòng và luôn vâng phục thánh ý của Thiên Chúa, thể
hiện qua lời thưa “xin vâng” của Mẹ Ma-ri-a:
- Trái với thái độ kiêu ngạo
không vâng phục của E-và và A-đam xưa trong
vườn địa đàng, Đức Ma-ri-a đã cùng
với Chúa Giê-su là A-đam Mới luôn lắng nghe Lời Thiên
Chúa, tìm hiểu thánh ý Chúa muốn và cúi đầu thưa
“Xin Vâng”. Trong biến cố truyền tin, Ngay sau lời
thưa “Xin Vâng” này, Chúa Thánh Thần đã tác động làm
cho Trinh nữ Ma-ri-a thụ thai Hài Nhi Đấng Cứu
Thế. Từ đây, Đức Ma-ri-a luôn ghi nhớ
các biến cố xảy ra và “suy đi nghĩ lại
trong lòng” (x. Lc 2,19). Nhất là khi đứng
dưới chân thập giá, Mẹ đã “xin vâng” để
dâng con yêu là Chúa Giêsu cho Thiên Chúa.
-
Qua biến cố truyền tin, chúng ta cũng noi
gương Mẹ để “xin vâng” và phó thác mọi
sự trong tay Chúa quan phòng: Xin vâng khi gặp may lành;
ngay cả những lúc gặp gian nan thử
thách, chúng ta cũng vẫn dâng lời cảm
tạ và thưa “Xin Vâng” với Chúa, vì biết
rằng: mọi sự Chúa để xảy ra
đều có ích cho phần rỗi đời
đời của chúng ta, vì «Đấng toàn năng có
thể rút từ sự dữ ra sự lành»; Chúa không bao
giờ triệt đường sống của chúng ta
như có người đã nói: “Chúa đóng cửa chính,
nhưng Ngài vẫn mở cửa sổ cho ta” và lời thánh
Phao-lô: “Tất cả
đều là hồng ân” (x. 1 Cr 15,10).
3) ÍCH LỢI
CỦA KINH MÂN CÔI:
** Hai Mươi mầu nhiệm Kinh Mân Côi :
Đức
Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã thêm năm sự sáng vào
mười lăm mầu nhiệm Mân Côi để kinh Mân
Côi trở thành sách Tin Mừng rút gọn:
- Năm mầu nhiệm Vui: diễn tả mầu
nhiệm Nhập thể và cuộc sống âm thầm
của Đức Giê-su suốt ba mươi năm tại
Na-da-rét.
- Năm mầu nhiệm Sáng: Diễn tả những
biến cố trong thời gian gần ba năm đi loan
báo Tin mừng Nước Trời của Đức Giê-su.
- Năm mầu nhiệm Thương: Diễn tả
các sự đau khổ mà Đức Giê-su phải chịu
trong cuộc Tử nạn để đền tội và
chết thay cho loài người.
- Năm mầu nhiệm Mừng: Diễn tả các
sự kiện cứu độ của mầu nhiệm
Phục Sinh của Chúa Giê-su mà Đức Ma-ri-a là
người đầu tiên đại diện cho Hội
Thánh được hưởng ơn ấy.
** Kinh Mân Côi giúp thánh hóa các gia đình tín
hữu :
Thánh GH Piô X đã nhắn nhủ các
gia đình Công giáo hãy siêng năng lần hạt Mân Côi để
thánh hóa gia đình mình như sau:
"Khi
gia đình được an vui hoà thuận, hãy lần
chuỗi Mân côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà
thuận yêu thương. Khi gặp người chồng
thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ
nhờ tràng chuỗi Mân côi, để xin Mẹ cảm hoá.
Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân
côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông".
Đức
Thánh Cha Piô XI cũng khuyên các gia đình tín hữu: “Chúng tôi
khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói
quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các
đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên
nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả
chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi”.
** Kinh
Mân côi giúp đưa lời kinh vào cuộc sống
thường ngày :
Đức
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dạy : Kinh Mân côi là lời kinh
kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức,
đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn
thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có
người đã nghĩ. Kinh Mân côi là kinh phổ quát cho
hết mọi người, phổ cập cho mọi trình
độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh
nào.
** Kinh
Mân côi là phương thế hữu hiệu giúp chiến
thắng ma quỷ cám dỗ : Ai yếu đuối, kinh Mân côi tăng cường
sức mạnh; Ai tội lỗi, kinh Mân côi dẫn
đưa về với Chúa; Ai bất hạnh, kinh Mân côi giúp
họ vươn lên; Ai khô khan, kinh Mân côi làm bùng lên ngọn
lửa tin yêu đang ẩn giấu trong đám tro tàn.
Mỗi khi bị ma quỷ cám dỗ, chúng ta hãy chiến
đấu bằng việc đọc kinh Mân Côi.
4) LÀM
THẾ NÀO ĐỂ THI HÀNH MỆNH LỆNH “SIÊNG NĂNG
LẦN HẠT MÂN CÔI” :
- Năm 1917, khi hiện ra với ba
trẻ em tại làng Fa-ti-ma nước Bồ đào Nha,
Đức Mẹ đã trao 3 mệnh lệnh là “cải
thiện đời sống”, “lần hạt Mân Côi” và “tôn
sùng trái tim Mẹ”. Trong ba mệnh lệnh này, người
ta sẽ thực thi mệnh lệnh “cải thiện
đời sống” và “tôn sùng trái tim Mẹ” bằng
việc “siêng năng lần hạt Mân Côi”.
-
Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ
đọc kinh cầu nguyện vì phải lo học hành, lo
làm ăn xuôi ngược. Chuỗi hạt Mân côi sẽ nuôi
dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con
người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng,
vội vã. Chuỗi Mân côi làm lòng người lắng
dịu, thanh thản bình an để cùng Mẹ Ma-ri-a chiêm
ngắm cuộc đời Chúa Giêsu.
-
Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là
lần hạt ở đâu cũng được. Ta không
buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có
thể đọc bao nhiêu tuỳ thời gian ta có. Ta
cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh
Mân côi mà không nhất thiết phải có cỗ tràng hạt
trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: Khi
chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải
trí, khi đau bệnh... thay vì đưa mắt nhìn chung
quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có
thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu
ta cũng đều có thể lần hạt
được.
4.
THẢO LUẬN: 1) Noi gương Thánh Mẫu Ma-ri-a
xưa, mỗi tín hữu chúng ta cần làm
gì để luôn thưa “Xin Vâng” theo Thánh ý Thiên
Chúa, dù gặp phải nhiều tai nạn,
rủi ro, thất bại hay những điều
trái ý cực lòng? 2) Bạn nên làm gì
để động viên người khác xin vâng
ý Chúa nếu họ gặp những điều
rủi ro trái ý như: thi rớt đại học,
có người thân mới qua đời,
gặp tai nạn giao thông, làm ăn thua lỗ...?
5. LỜI
CẦU:
LẠY MẸ MA-RI-A.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi
với Đức Giêsu trong mọi bước
đường của cuộc sống. Mẹ vui khi
thấy người ta ca tụng Chúa. Mẹ lo sợ
buồn sầu khi Chúa bị bắt bớ xét xử
bất công và Mẹ đã can đảm theo Chúa đến
cùng trên con đường thánh giá.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng
sợ phải lên đường mỗi ngày, đừng
sợ đáp lại tiếng Chúa gọi bỏ mình vác
thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa .
Xin giúp chúng con luôn đi trên Đường
Giêsu để rồi chúng con lại trở thành nẻo
đường hiền hòa khiêm hạ, hầu dẫn đưa
nhiều người tin yêu Chúa và được chia sẻ
hồng ân cứu độ của Chúa. Chúng con tin
rằng : Nếu chúng con biết mỗi ngày nhờ kinh
Mân Côi biết chết đi cho tội lỗi và các thói
hư, thì chúng con sẽ hy vọng cùng được sống
lại với Chúa sau này.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-
Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
|