Còn đọng lại
gì sau chuyến thăm
của Hồng Y
Tổng Trưởng Bộ Loan Báo Tin Mừng ?
WGPHH - Chuyến thăm Giáo Hội
Việt Nam vừa qua của ĐHY Fernando Filoni
được đánh giá rất tốt đẹp:
- Ngài thăm 3 tổng giáo phận Hà
nội, Huế, Saigon và ba giáo phận Hưng Hóa, Đà
nẵng, Xuân Lộc; gặp gỡ Hội đồng Giám
mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh, giáo dân. Đến đâu, ngài đều
được đón tiếp nồng nhiệt, vui
tươi, đông đảo. Về mặt giáo quyền
thì như vậy là rất tuyệt vời !
- Ngài
được Thủ tướng và Tổng Bí thư
tiếp kiến ; Ban Tôn Giáo Chính Phủ đón và tiễn
ngài tại sân bay; báo chí, truyền hình, đài phát thanh trung
ương và địa phương đăng tin. Chứng
tỏ chính quyền nước ta trân trọng chuyến
thăm này.
- Trả
lời phỏng vấn của đài phát thanh Vatican, ĐHY không tiếc lời khen ngợi:
“Giáo Hội tại Việt Nam là
một Giáo Hội rất sinh động. Tôi đã gặp
thấy... một Giáo Hội rất đẹp, rất sinh
động, rất khả ái và rất nhiệt thành” (Vietcatholic.net ngày 21.01.2015). “Đó thực là một Giáo
Hội hết sức sinh động, dấn thân, ngày qua
ngày đáp ứng được những mong đợi,
cả về mặt xã hội và nhân bản của
đất nước” (Vietcatholic.net ngày 27.01.2015). ĐHY
nhận xét như sau về các tín hữu: “Tôi nói rằng lòng quí mến của các tín hữu
Việt Nam phần
nào giống như sóng thần (tsunami). Trước hết,
họ có một ý thức rất đặc biệt mình là
Kitô hữu, một lòng đạo đức thật
đáng khen và một lòng quý mến nồng nhiệt mà
họ biểu lộ dào dạt một cách tự nhiên” (Vietcatholic.net ngày 27.01.2015).
- Đức
cha Chủ tịch HĐGMVN, trong thư cám ơn gửi cho
cộng đoàn dân Chúa ngày 28.01.2015, cho biết : “ĐHY tỏ ý rất hài lòng và trân trọng cùng
cảm mến đức tin sống động và dấn
thân, trung thành và yêu mến đặc biệt của Dân Chúa
tại Việt Nam
đối với Hội Thánh”.
Đọc
những tâm tình trên, chúng ta cảm thấy hãnh diện, sung
sướng và mãn nguyện. Phải nhận những
lời đó thể hiện rất đúng tấm lòng của
mọi thành phần dân Chúa tại các nơi ĐHY ghé
thăm, dâng thánh lễ hay gặp gỡ...
Mục
đích chuyến thăm của vị Tổng
trưởng Bộ Loan Báo Tin Mừng tại một Giáo
Hội truyền giáo, - trực thuộc thẩm quyền
của ngài -, là để biết rõ tình hình của Giáo
Hội đó, và cũng để khích lệ thăng
tiến hơn nữa trong công cuộc rao giảng Tin
Mừng Chúa Kitô.
Nhìn
vào hiện tình ở Việt Nam, đạo công giáo đang
phát triển nhiều mặt: các công trình tôn giáo đồ
sộ vĩ đại được xây dựng; các hội
dòng mặc sức phát triển về nhân sự và cơ
sở ; việc chiêu sinh vào chủng viện không còn bị
hạn chế ; việc phong chức, bổ nhiệm các
linh mục dễ dàng…, tuy vẫn còn khó khăn ở một
số nơi như Kontum, Hưng Hóa…, và trong một số
lãnh vực mà Giáo Hội Việt Nam vẫn chưa được quyền
góp mặt như y tế, giáo dục, truyền thông, văn
hóa …
Trong
bình tâm lặng lẽ, trước mặt Chúa, chúng ta
thử suy nghĩ xem GHVN đã xứng với những
lời khen ngợi trên, và được phép hãnh diện
về những thành quả đạt được, trong
sứ mạng loan báo Tin Mừng trên quê hương
đất nước ?
Cha
Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, trong bài “Nhìn lại sứ
mạng truyền giáo trong 50 năm qua và hướng
đến tương lai” (nguồn: www.catholic.org.tw/vntaiwan/09news/9news246.htm),
đã cho rằng “hiệu quả ấy chưa cao như
lòng mong ước”, bằng cách so sánh những số
liệu thống kê do Hội đồng Giám mục
Việt nam cung cấp. Dưới
đây là một vài nhận định:
a. Tỷ
lệ người công giáo so với dân số cả
nước xem ra không tăng mà lại suy giảm !
b.
Số người theo đạo không tương xứng
với số nhân sự lo việc truyền giáo. Nếu
cộng số linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh
và giáo lý viên trong cả nước hay trong một giáo
phận, ta sẽ thấy kết quả này là khá nhỏ bé. Nhiều
giáo phận có số người theo đạo rất
thấp. Vậy
ai là người loan báo Tin Mừng? Các linh mục, tu sĩ
có bao giờ suy nghĩ về hiệu quả truyền giáo
và thay đổi cách thức truyền giáo không ? Giáo dân có
tích cực tham gia vào công cuộc này không ?
c. Nhìn
vào Giáo Hội Tin Lành ở Việt Nam, hay nhìn sang Giáo Hội Hàn quốc, ta phải
ngạc nhiên đến thán phục sự tăng
trưởng của họ. Cùng
trong một đất nước, hay trong một khu
vực, có những điểm tương đồng
về lịch sử, văn hóa, nếp sống, nhất là
niềm tin kitô, vậy mà ta với họ khác nhau một
trời một vực.
Dĩ
nhiên con số thống kê chưa hẳn nói lên tất
cả, và không nên dựa vào con số để
lượng giá. Cha Sơn nhận định: “Quả thực, chúng tôi luôn trân
trọng mọi hoạt động tông đồ, và
hiểu rằng giá trị thực sự của hoạt
động loan báo Tin Mừng nằm ở sự
lượng định hay phán quyết của Thiên Chúa
chứ không phải của con người. Dù cả
một đời không rửa tội được
một ai, nhưng nhà truyền giáo vẫn được
đánh giá rất cao vì sự hiện diện tích cực,
hiền lành, nhân ái của người ấy trong một
cộng đồng xa lạ, vì những nỗ lực rao
giảng Tin Mừng của người ấy thấm nhập
vào xã hội, vào nền văn hóa của dân tộc… và
cuối cùng chỉ có Thiên Chúa mới nhìn thấu hết
những gì nhà truyền giáo ấy thực hiện và
thưởng công cho người đó”.
Nhận
định thực trạng không phải để ngã lòng
hay bi quan, mà để chấn chỉnh và thăng tiến.
Công cuộc loan báo Tin Mừng luôn có những thách đố
cho mọi thời và mọi nơi. ĐTC Phanxicô trong tông
huấn Niềm vui của Tin Mừng mời gọi Giáo
Hội phải “hoán cải mục vụ”, duyệt xét
lại điều gì chưa đúng, và đổi mới
cách nghĩ cách làm. Sau đây là một số điểm chúng
ta cần xem xét lại và định hướng cho
đúng.
-
Trước hết, vẫn là quyết tâm không ngừng thực
thi sứ mệnh Chúa giao: “Anh
em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép
rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, dạy
họ tuân giữ mọi điều Thầy đã
truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi
ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Vững tin
rằng trong sứ vụ truyền giáo, Chúa luôn hiện
diện, đồng hành và nâng đỡ Giáo Hội.
-
Thứ hai, đáp ứng lệnh lên đường
của Đức Thánh Cha Phanxicô. Ngài lặp lại
nhiều lần rằng Giáo Hội phải đứng
dậy, mở cửa, ra đi, đến với mọi
người mọi nơi, nhất là ở vùng ngoại biên.
Vùng ngoại biên không chỉ hiểu về địa lý, là
những miền xa xôi hẻo lánh, nơi quả thật
người ta còn ít biết về Chúa, mà còn hiểu theo
nghĩa bóng, là cạnh chúng ta, giữa thị thành đô
hội, vẫn có những người ở bên lề kitô
giáo, không biết hoặc thờ ơ với Đức
Kitô.
-
Thứ ba, chúng ta còn loay hoay dồn nhiều công sức vào
việc xây dựng cơ sở vật chất, tổ
chức những cuộc lễ hoành tráng, tốn phí
nhiều, trong khi việc xây dựng và củng cố các
đền thờ tâm hồn vẫn còn bị lơ là. Nhân
lực, vật lực dành cho việc xây cất và tổ
chức lễ lạc thì nhiều, mà dành cho việc loan báo
Tin Mừng thì quá ít.
-
Thứ bốn, người giáo dân Việt Nam vẫn còn
thụ động, lo giữ đạo phần mình, mà không
mạnh dạn dấn thân cho việc loan báo Tin Mừng
như anh em Tin Lành và Công giáo Hàn quốc đang làm.
Truyền giáo là bổn phận của mọi tín hữu,
chứ không phải của riêng ai. Chúng ta cần học hỏi
sự hăng say nhiệt tình, tận dụng mọi cơ
hội để rao giảng Đức Kitô, dù bị
chống đối, khước từ. Bản chất
của Tin Mừng là phải được loan báo. Một
người có niềm vui thì khó mà giữ kín, thế nào
cũng phải nói ra, chia sẻ cho người khác biết.
Vậy, nhận biết Tin Mừng mà giữ riêng cho mình là ích
kỷ, thiếu trách nhiệm.
-
Thứ năm, ta dễ trương khẩu hiệu “Hãy
đi loan báo Tin Mừng”, rồi chẳng làm gì hết ! Phải
có kế hoạch thực tiễn cho việc truyền giáo.
Giáo Hội Hàn quốc, chẳng hạn, đề ra
phương cách : Mỗi tín hữu kết thân với một
người ngoài công giáo ; mỗi gia đình có đạo
kết nghĩa với một gia đình lương dân,
để qua sự tiếp xúc thân tình, chia sẻ vui
buồn, giới thiệu Chúa cho họ. Nhờ vậy mà
Giáo Hội Hàn quốc tăng trưởng mạnh.
- Thứ
sáu, hiểu biết phải đi đôi với việc
làm. Để loan báo Tin Mừng, người tín hữu
cần hiểu biết và xác tín vào Tin Mừng, mới có
thể giới thiệu cho người khác. Một
điều hiển nhiên là nhiều người công giáo chẳng
biết Tin Mừng, hoặc biết sơ sài, thậm chí
hiểu sai, thì làm sao mà loan báo được. Nhiều gia
đình cái gì cũng có, mà cuốn Tin Mừng thì lại không.
- Thứ
bảy, Hội đồng Giám Mục Việt Nam trong
Thư Mục Vụ 2015 nhắc nhở rằng việc
tân-phúc-âm hóa đi đôi với việc học hỏi giáo
lý. Nhiều nơi đã có những cố gắng trong
việc trang bị kiến thức đạo cho thanh
thiếu niên. Tuy nhiên, số người không nắm
vững giáo lý còn nhiều lắm.
- Thứ
tám, người loan báo Tin mừng phải vui tươi. Đó
là điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở
trong lời mở đầu tông huấn Evangelii Gaudium: “Niềm vui của Tin Mừng
đổ đầy trái tim và cuộc sống của
tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai
chấp nhận đề nghị cứu độ
của Người đều được giải thoát
khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng
nội tâm và cô đơn. Với Đức Kitô, niềm
vui luôn luôn được tái sinh”. Vậy, một kitô
hữu mà lúc nào cũng buồn phiền, sống
đạo mà như một gánh nặng, miễn
cưỡng tham dự thánh lễ Chúa nhật, thì làm sao
thuyết phục người khác rằng mình đang
dạt dào niềm vui sống đạo.
Thứ
chín, không biết năm Phúc-Âm hóa đời sống gia
đình vừa qua có còn âm hưởng gì nơi các gia
đình công giáo chăng ? Đúng là trước khi đem
chuông đi đánh cho người khác nghe, thì đánh cho
người trong nhà nghe đã ! Nói thế là bởi vì có gia
đình mà cha mẹ giữ đạo còn con cái thì không,
hoặc cha bỏ, mẹ giữ, và con cái thì mặc kệ,
chẳng ai thúc giục bảo ban nhau, chẳng ai lấy làm
điều tiếng gì ! Đạo không phải là
chuyện của cá nhân, mà còn của mọi phần tử
trong gia đình, những người sống chung một
mái nhà, chung mọi sự mà niềm tin thì lại riêng
rẽ.
Còn
nhiều điểm nữa cần duyệt xét lại đối
với sứ mạng truyền giáo, vốn gắn liền
với bản chất của Giáo Hội. Nếu được
định hướng đúng đắn và thực
hiện tốt những điểm trên, nhất
định Giáo Hội Việt Nam sẽ tiến nhanh trong việc loan báo
Tin Mừng. Chắc chắn vậy !
Những
gì Đức Hồng Y Filoni phát biểu sau chuyến
thăm mục vụ vừa qua nên được coi
như lời mời gọi và khích lệ chúng ta nỗ
lực hơn trong sứ mạng truyền giáo, hầu nhiều
anh chị em đồng bào chúng ta nhận biết và tin yêu
Chúa hơn. “Thầy đến
để anh em được sống và sống dồi
dào” (Ga 10,10).
+
Anphong Nguyễn Hữu Long
Giám mục Phụ tá Hưng Hóa
Chủ tịch UBLBTM/HĐGMVN
Năm 2008, GHVN có 3.541
linh mục, 1.480 chủng sinh, 2.125 chủng sinh dự
bị, 1.914 tu sĩ, 13.838 nữ tu, 56698 giáo lý viên, tổng
cộng 79.596 người, chưa kể cả triệu
đoàn viên các hội đoàn Công giáo Tiến hành, vậy mà
chỉ thu hút được 41.444 người gia nhập
đạo, trung bình cứ 2 người tín hữu ưu
tuyển mới thu hút được 1 người theo
đạo.
[3] Năm 2008, giáo phận Huế có 68.240
giáo dân, 131 linh mục, 44 chủng sinh, 86 tu sĩ, 916 nữ
tu, 744 giáo lý viên, mà chỉ có 106 người lớn theo
đạo. Giáo phận Bùi Chu có 391.837 giáo dân, 159 linh
mục, 54 chủng sinh, 609 nữ tu, 4.053 giáo lý viên, thế
mà chỉ có 735 người gia nhập đạo. Giáo
phận Saigon có 662.148 giáo dân, 604 linh mục, 87 chủng sinh,
317 tu sinh, 959 tu sĩ, 3.103 nữ tu, 567 tu sĩ thuộc tu
hội, 5,528 giáo lý viên, mà chỉ có 7.345 người tân tòng.
[4] Năm 1999, số tín hữu là 400.000
người. Năm 2008, con số này đã lên tới 1.500.000
người. Như thế số tín hữu tăng gần
4 lần trong vòng 10 năm.
|