VẤN ĐỀ THỤ
TINH TRONG ỐNG NGHIỆM
Có bao giờ
được phép thụ
tinh trong ống nghiệm (IVF – In Vitro Fertilization) hay không? Đó là một câu hỏi khó về lĩnh vực luân
lý: Trả lời vấn
đề này gợi
lên một vấn đề
quan trọng khác: Có bao giờ hợp pháp đối với việc tạo ra một sự
sống con người mới ngoài hôn nhân?
CÂU HỎI
– Con đang gặp khó khăn về luân lý. Con là người Công giáo, còn chồng con là người Chính Thống giáo. Anh ấy gần 40 tuổi, còn
con gần 35 tuổi. Chúng
con đã kết hôn gần 4 năm. Chúng
con được biết
rằng chúng con chỉ có 1% cơ may thụ thai tự nhiên vì
vấn đề vô
sinh ở người chồng
(tinh trùng yếu). Hai vợ chồng con đã áp
dụng phương
pháp phẫu thuật
và sử dụng
vitamin để làm tăng cơ may thụ thai, nhưng không cải thiện được bao nhiêu.
Chúng con cũng đã thử
phương pháp Creighton Model, nhưng cách này xử lý tình trạng vô sinh ở nữ giới chứ không ở nam giới. Cách
duy nhất để chúng
con có con là sử dụng
phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, với kỹ
thuật ICSI (Intracytoplasmic Sperm Injection), một tế bào
tinh trùng được
đưa vào trứng (điều này vượt qua vấn đề di động).
Giáo Hội Chính
Thống không cấm thụ tinh trong ống nghiệm mà
khuyến khích
điều đó
trong những trường
hợp như chúng con, và rất ít linh mục Công giáo nói rõ về vị trí Công giáo.
Bởi
vì con rất muốn
sinh con, và con đã nghĩ tới phương pháp
IVF. Nếu chúng
con chọn cách
này, chúng con sẽ dùng
trứng của con và
tinh trùng của chồng
con, nghĩa là không có người khác hiến tặng, và
chúng con sẽ không
thử gien trước
để “loại bỏ” bất kỳ phôi
thai nào. Thú thật rằng
con không hoàn toàn đồng ý 100% với phương pháp
IVF và đã được
mấy người bạn linh mục tư vấn, họ
nói rằng họ
không là thần
học gia về luân lý nên không thể đưa ra lời khuyên
chi tiết về giáo huấn của Giáo Hội. Hiện nay con chuẩn bị chu kỳ
thứ nhất của phương pháp
IVF (bắt đầu ngày 5
tháng 6 năm 2019). Xin cho vợ
chồng con lời khuyên trong thời gian sớm nhất.
TRẢ
LỜI – Tôi muốn bắt đầu bằng việc
xin lỗi bạn nhân danh Giáo Hội Công giáo, đặc biệt là thay mặt các linh mục, giám mục, giáo lý viên và những người dạy mà bạn gặp đã làm bạn không thỏa mãn. Tôi thực sự rất xin lỗi về
điều đó, bởi
vì rất khó làm
cho bạn hiểu về
sự thật của giáo huấn Công giáo. Xin hãy đọc phần trả lời của tôi với tinh thần cầu nguyện.
Vấn
đề tiến thoái lưỡng nan của bạn rút gọn thành một vấn đề đơn giản
này: Có bao giờ hợp pháp
đối với việc
tạo ra một sự sống con người mới ngoài
hôn nhân? Nếu có, chắc chắn là trường hợp của bạn – một tín hữu, một người sùng
đạo, một đôi vợ chồng Kitô giáo gặp khó khăn trong sự vô sinh ở nam giới – sẽ bảo đảm
một sự hấp dẫn giới hạn đối với
kỹ thuật như phương pháp IVF.
Nhưng trả lời vấn đề này,
theo giáo huấn bất biến
của Giáo Hội
Công giáo, là KHÔNG. Tôi nói với
bạn điều này với sự cảm thông
sâu sắc nhất. Tôi
xin lỗi, nhưng không
thể khác được. Bất cứ ai nói với bạn cách khác, kể cả giám mục hoặc linh mục, là hướng dẫn sai và phản bội giáo huấn Công giáo. Nhưng hy vọng cách giải thích về giáo huấn đó có thể giúp bạn phần nào.
Phương pháp IVF là kỹ thuật tương đới mới,
thế nên nửa thế kỷ
trở lại đây Giáo Hội Công giáo không nói về điều đó. Một trong các huấn thị đầu tiên và
uy tín nhất – và vẫn rõ ràng nhất – về vấn đề sinh sản
có trong Huấn Thị Donum
Vitae (Tặng Phẩm Sự Sống, 22-2-1987), Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin (CDF – Instruction of the Congregation for
the Doctrine of the Faith) ban hành, ĐHY Joseph Ratzinger (giáo
hoàng danh dự ngày
nay) đã thực hiện theo yêu cầu của Thánh GH Gioan Phaolô II.
Trong phần
II, tài liệu này giải thích tại sao sự sinh sản luôn là
“hoa trái của hôn
nhân” (nghĩa là chỉ nên xảy ra theo cách giao hợp giữa hai người đã kết hôn với nhau).
Bản
văn nói rằng sự sinh sản
con người “phải là hoa trái và là dấu chỉ tự hiến cho nhau giữa
hai vợ chồng, trao nhau tình yêu và lòng chung thủy”. Điều này
được Thánh
GH Phaolô VI đề cập
trong Thông Điệp Humanae
Vitae (Sự Sống Con Người, 25-7-1968) rằng có sự nối kết không
thể tách rời, được Thiên
Chúa thiết lập, điều
mà con người không
thể phá bỏ theo ý mình, giữa ý nghĩa kết hợp và sinh sản của hôn nhân, cả hai điều đó vốn dĩ gắn liền với hôn
nhân (số 12).
Ý nghĩa kết hợp của hôn
nhân là người nam và người nữ liên kết với nhau trong hôn
nhân trở nên “một xương một thịt”. Dĩ
nhiên đó là việc
giao hợp phu thê. Thông điệp Humanae Vitae dạy rằng có sự liên kết “không thể tách rời” giữa việc tự hiến cho
nhau trong việc giao hợp phu thê và sinh ra sự sống mới.
Chúng ta biết
rằng mối liên kết
giữa sự giao hợp và sự sinh sản không thể tách rời về thể lý (vì
chúng ta có thể dễ dàng
phá bỏ điều
đó, ít nhất là
ngày nay), tính bất khả phân ly
đó phải là phẩm chất luân lý. Thật vậy, điều đó
chính xác là điều được
ngụ ý khi thông điệp
nói rằng “con người
không thể phá bỏ theo ý mình”, hệ lụy là không được phép chứ không phải là không có khả năng (may not, not cannot). Nghĩa
là không bao giờ hợp pháp
khi muốn tách rời sự sống mới khỏi việc
giao hợp phu thê trong hôn nhân.
ĐGH Piô XII đã dạy nguyên tắc này từ năm 1956, khi nói về mối liên kết không thể tách rời khi ngài tuyên bố: “Không bao giờ được phép
tách rời các phương
diện khác
nhau này tới mức độ
loại trừ ý định sinh sản hoặc mối quan hệ
hôn nhân”.
Có hai kết
luận: 1) Việc giao hợp không bao giờ được phép chọn cùng lúc lại loại trừ khả năng sinh sản
(nghĩa là dùng biện
pháp tránh thai); và 2) sự
sinh sản không bao giờ
được phép chọn
ngoài hôn nhân.
Huấn
Thị Donum Vitae kết luận rằng “thụ tinh”
chỉ hợp pháp “khi đó là kết quả của hành
vi hôn nhân thích hợp đối
với việc sinh con mà hôn nhân được phép theo bản chất và qua đó vợ chồng nêm một xương một thịt” (Giáo Luật, 1061).
Giáo huấn
này được
lặp đi lặp lại hơn 30 năm qua. Ví dụ, Giáo lý Công giáo dạy: Các kỹ thuật liên quan các vợ chồng kết hôn (sự thụ nhân tạo tinh tương đồng [kể cả
phương pháp IVF])… vẫn
KHÔNG ĐƯỢC
CHẤP NHẬN về phương diện luân
lý. Các phương pháp đó tách rời hành vi giới tính ra khỏi hành vi sinh sản (số 2377).
Vấn
đề cũng được đề cập trong Huấn
thị Dignitas Personae (Phẩm Giá Con Người, số 16-17; số 17 nói về ICSI) năm 2008 của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, và văn bản “Life Giving Love in an Age of Technology” (tr.
6-10) năm 2009 của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ. Các tài liệu nói về việc sinh sản có sự hỗ trợ của con người
đều rõ ràng xác định về giáo huấn này.
Giáo huấn
này có vẻ như hợp
pháp, nếu giáo
quyền độc đoán muốn rút lại luật “không thể tách rời” này, bắt Giáo Hội và chúng ta làm điều đó.
Bạn
có thể hỏi rằng
tính tuyệt đối giữa
hành vi hôn nhân và sự
sinh sản gợi lên từ đâu? Theo các trường hợp cực đoan như của
chúng ta, tại sao không
thể ngoại trừ? Cuối cùng,
chúng ta không có ý định
chấp nhận những hành động xấu mà nhiều người liên
quan phương pháp IVF: tạo
nhiều phôi thai, hủy
diệt một số, và giữ đông lạnh một số khác, cố ý “làm giảm” nhiều trường hợp thụ
thai, v.v...
Tôi đồng
ý rằng chọn phương
pháp IVF khi không có ý giết
hại, thử nghiệm hoặc giữ đông lạnh, hoặc tha thứ việc sát hại, thử nghiệm hoặc giữ
đông lạnh các
thai nhi mà bạn tạo ra, trong
khi có ý muốn nhận các
thai nhi sống sót,
nuôi dưỡng chúng mạnh khỏe và nuôi dưỡng chúng trong đức tin, thì vẫn tốt hơn nhiều người
ngày nay chọn phương
pháp IVF. Nhưng điều
đó vẫn sai, và vì
thế mà cũng nghiêm trọng. Tại sao?
Bởi
vì trẻ em không
chỉ có quyền được nuôi dưỡng bởi cha mẹ, chúng
còn có quyền được
sinh ra qua hành động
yêu thương của
cha mẹ. Các thai nhi là con người. Không có gì đáng quý giá
và đáng tôn trọng hơn
trong vũ trụ được tạo dựng hoàn
toàn – không là thiên thần
mà còn hơn là những
con người. Như vậy, chúng có quyền tự nhiên được ra đời theo cách
hoàn toàn phù hợp với nhân phẩm con người, theo cách
diễn tả tình yêu thương
của con người, và
chúng ta có trách nhiệm tôn trọng quyền đó.
Chỉ
có hành vi con người
mới đủ diễn tả tình yêu này: sự giao hợp phu thê.
Khi thai nhi hiện hữu do hành
vi tình yêu tự hiến, nó
được sinh ra bằng
tình yêu thương.
Mặt
khác, các thai nhi do phương pháp IVF, dù thuộc về những người tốt
như bạn, cũng KHÔNG ĐƯỢC SINH RA trong tình yêu thương,
mà ĐƯỢC TẠO RA. Chúng
là sản phẩm của
phòng thí nghiệm, nơi mà các
yếu tố cấu thành
được pha trộn với
nhau dưới con mắt cảnh giác của kỹ thuật viên ở nhiệt độ được kiểm
soát, được
đưa vào những
cái khay ấm áp,
và được theo dõi bằng kính hiển vi cho tới lúc đủ mức để gieo cấy. Các
thai nhi này hiện hữu không
do hành vi yêu thương, mà do kỹ
thuật viên trong phòng thí nghiệm. Theo cách này, chúng được coi là các sản phẩm. Cha mẹ chúng
muốn nuôi dưỡng chúng trong đức tin thì cũng không và không thể xóa bỏ sự thật rằng từ lúc hiện hữu, chúng được coi là chưa giống con người (subhuman).
Rồi
bạn sẽ làm gì? Điều đầu tiên phải làm khi cân nhắc chọn lựa là loại bỏ các biện pháp sai lầm về luân lý. Vì thế, bạn nên bỏ cuộc hẹn vào
ngày 5 tháng 6 năm 2019. Đây là điều khó, nhưng là điều đúng mà bạn phải làm. Rồi bạn lo về cách xử lý. Bạn đã cân phương pháp
IUI (intrauterine/fallopian insemination) hay chưa? Đó là cách giao hợp phu thê tự nhiên; tinh trùng được lấy từ tử cung người
vợ (không dùng bao cao-su); tinh trùng được “rửa” và đặt lại vào noãn sào (ống dẫn trứng) hoặc tử
cung. Trứng cũng có thể lấy ra và đặt vào lại. Một số thần học gia tin
rằng điều này tạo sự thay thế cho hành
vi hôn nhân, nhưng tôi không đồng
ý như vậy. Đối
với tôi, điều đó có
vẻ là cách thức hợp pháp để hỗ trợ hoàn tất hành vi hôn nhân mà thôi. Giáo
Hội không giáo huấn về tính luân lý của phương pháp
IUI.
Cuối
cùng, nếu bạn thấy
không hợp pháp về luân lý để sinh con, cũng như các nỗi khổ không thể tránh mà người ta phải đối diện, bạn
nên làm điều gì tốt nhất để chấp nhận sự
vô sinh như một
thập giá mà Chúa Giêsu muốn bạn vác, ít là trong lúc này. Nhưng
bạn không nên tránh né bằng cách chạy vòng quanh thập giá. Điều đó sẽ có cái kết tồi tệ cho bạn và những người mà bạn yêu thương.
Tôi mong được tiếp tục trao đổi với
bạn về vấn đề này. Xin Thiên Chúa chúc lành
cho vợ chồng bạn.
E. CHRISTIAN BRUGGER
TRẦM THIÊN THU
(chuyển ngữ từ
NCRegister.com)
Đêm 2-6-2019
|