Google Search
Local Search
Trang mạng Kính Mừng Maria .com xin hân hạnh giới thiệu bộ Audio. "TÌM HIỂU ĐẠO CÔNG GIÁO". Do Linh mục Phêrô HOÀNG MINH TUẤN, Dòng Chúa Cứu Thế, biên soạn.
Bộ sách này được sắp xếp theo dạng đàm thoại giữa một người ngoại đạo, và một linh mục Công Giáo dưới dạng hỏi và trả lời. Đây là tất cả những giáo lý căn bản mà mọi người Công Giáo cần phải biết.
Qua giọng đọc của Thu-Hường
|
Trang mang KinhMungMaria.com xin hân hạnh giới thiệu bộ Audio: "Sưu Tập Những Bài Suy Niệm Kinh Thánh ". Do Lm. Phêrô HOÀNG MINH TUẤN, Dòng Chúa Cứu Thế, biên soạn.
Qua Audio này, Chúa Giêsu âu yếm nói với mỗi người chúng ta: "Khi bạn lắng nghe tiếng Mình, bạn sẽ nghe được lời : “Tôi yêu bạn!” Mình đang cố gắng nói cho bạn biết điều đó trong bầu trời xanh biếc và trong thảm cỏ xanh rì lặng lẽ ..."
Qua giọng đọc: Thiên-An.
|
|
|
[ Audio] Tóm Lược Học Hỏi Phúc Âm: Chúa Nhật 1b Phục Sinh( Linh Mục Cao Siêu, Dòng Tên)
|
|
|
|
[ Audio] Tóm Lược Học Hỏi Phúc Âm: TUẦN Lễ Lá( Linh Mục Cao Siêu, Dòng Tên)
|
|
|
Trang mạng KínhMừngMaria.com xin hân hạnh giới thiệu bộ Audio. "Maria, Tấm Gương Cho Giáo Hội". Tác giả: Raniro Cantalamessa. Chuyển ngữ: Do một nhóm linh mục Ðàlạt.
.
Qua Audio này, chúng ta nghe về Ðức Maria, và được "soi gương" nơi Ðức Maria. Nhưng Mẹ luôn luôn quy tất cả về Thiên Chúa, và Mẹ chỉ được xem như một dụng cụ. Qua Ðức Maria chúng ta tôn vinh Thiên Chúa chứ không phải tôn vinh Mẹ.
Qua giọng đọc: Đan-Anh.
|
Lần Đầu Thấy Cha Nguyễn Khắc Hy Phản Ứng Mạnh Về NHÓM TRỪ QUỶ BẢO LỘC
|
Trang mạng KinhMungMaria.com xin hân hạnh giới thiệu bộ Audio. "Hoa Trái Thinh Lặng". Tác Giả: Thomas Merton. Chuyển Ngữ: Linh Mục Minh Anh, Giáo Phận Huế.
“Cuộc sống của con là lắng nghe, Cuộc Sống của Chúa là dạy bảo! Lắng nghe và đáp trả là việc của con; nhờ đó, con được cứu độ. Vì thế, đời con phải lặng thinh!
Qua giọng đọc: Thu-Hường
|
|
Trang mạng Kính Mừng Maria .com xin hân hạnh giới thiệu bộ Audio. "Đức Maria, Trong Tân Ước". Tác giả: Augustin George. Chuyển ngữ: Nguyễn Đăng Trúc.
Maria là nữ tì tuyệt vời, Mẹ chỉ biết: đón nhận Chúa Giêsu, thực hiện Chúa Giêsu, cho chúng ta Chúa Giêsu. Đó là vai trò duy nhất và cao cả của Mẹ.
Qua giọng đọc: Đan-Anh.
|
Các Cuộc Hành Trình Truyền Giáo Của Thánh Phao-lô Tông Đồ
|
|
Trang mạng Kính Mừng Maria .com xin hân hạnh giới thiệu bộ Audio. "Lắng Nghe Chúa Thánh Thần ". Do Linh mục Nguyễn văn Thành biên soạn.
Để có thể sống Đức Tin vào Đức Kitô, và làm chứng Tin Mừng của Ngài trên khắp mọi nẻo đường thế giới, chúng ta cần phải «tràn đầy và thấm nhuần Chúa Thánh Thần». Ngài là Đấng đưa đường chỉ lối cho chúng ta, trong những điều chúng ta nói, cũng như trong mọi việc chúng ta làm.
Qua giọng đọc của Thu-Hường
|
|
Trang mạng Kính Mừng Maria .com xin hân hạnh giới thiệu bộ Audio. "Truyện Lạ Thánh Thể". Biên Soạn: Tiến sĩ Trương Vân Thục, Dòng Biển Đức.
Chúa Kitô hiện diện trong Thánh Thể bao lâu hình bánh rượu còn tồn tại. Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn trong hình bánh hoặc hình rượu, và trong bất cứ phần nhỏ bé nào cũng có trọn vẹn Chúa Kitô. Khi Rước Lễ là chúng ta đón nhận sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô nhưng chỉ một chốc lát thôi vì bánh rượu sẽ tan ngay, song sự hiện diện thiêng liêng của Chúa vẫn kéo dài.
Qua giọng đọc: Hà-Huyền
|
Tỉnh tâm Mùa Chay 2004_ Lm Nguyễn Khắc Hy_ CđCgVn Gx Đức Bà là Chốn Tựa Nương
|
Bước Vào Tuần Thánh, Xin Chia Sẻ "Nhìn Lên Thánh Giá - Cuộc Khổ Nạn Của Chúa Giêsu"
|
|
|
|
|
|
|
|
Trong tâm tình mùa sám hối xin chia sẻ: "Con Còn Nợ Chúa"
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
|
Tình Yêu Là Sứ Mệnh Của Chúng Ta Để Gia Đình Sống Dồi Dào
|
|
Thứ Hai, Ngày 27 tháng 4-2015
|
http://www.liendoanconggiao.net/
TÌNH YÊU LÀ SỨ MỆNH CỦA CHÚNG
TA
ĐỂ GIA ĐÌNH SỐNG DỒI DÀO
Giáo lý chuẩn bị Đại Hội các Gia Đình Thế Giới tại Philadelphia 2015
BÀI SÁU
MỌI TÌNH YÊU ĐỀU MANG LẠI HOA
TRÁI
Không phải mọi người đều được ơn gọi tiến đến hôn nhân. Nhưng đời
sống nào cũng đều nhắm tới sinh bông kết trái. Đời sống nào cũng đều có năng lực
và nhu cầu nuôi dưỡng sự sống mới – nếu không qua sinh sản và nuôi dạy con cái,
thì cũng qua các hình thức sinh yếu khác nhằm dâng hiến bản thân, kiến tạo và
phục vụ. Hội Thánh là một đại gia đình bao gồm những ơn gọi khác nhau, nhưng
tuy khác biệt nhau, các ơn gọi này đều cần đến nhau và cũng đều nâng đỡ nhau. Đời
linh mục, đời tu trì, và cuộc sống độc thân giữa đời đều làm phong phú, và được
trở nên phong phú, nhờ chứng tá của đời sống hôn nhân. Những cung cách khác
nhau để giữ đức khiết tịnh và đời sống độc thân bên ngoài đời sống hôn nhân đều
là những lối tận hiến đời mình cho công cuộc phụng sự Chúa và cho cộng đồng
nhân loại.
Sự phong nhiêu thiêng liêng của đời độc thân
91. Hai trong số các bí tích của Hội Thánh đều là độc đáo ở chỗ
cả hai đều tận tụy phục vụ “sự cứu độ tha nhân”. Cả bí tích Truyền chức thánh lẫn
bí tích Hôn phối đều “ban ân sủng đặc biệt cho một sứ mệnh đặc thù trong Hội
Thánh là phục vụ và làm gia tăng dân Chúa”[1].
92. Nói cách khác, không phải tất cả mọi người nam và người nữ đều
cần phải làm cha làm mẹ về mặt sinh học để chiếu tỏa tình yêu Thiên Chúa hay dự
phần vào “gia đình của các gia đình” tức là Hội Thánh. Ơn gọi sống đời linh mục,
hay đời tu trì đều có tính trọn vẹn và vinh dự riêng của mỗi ơn gọi này. Hội
Thánh luôn cần đến linh mục và tu sĩ, và các bậc cha mẹ phải giúp cho con cái
mình biết lắng nghe tiếng Chúa có thể mời gọi chúng dâng hiến cuộc đời theo hướng
đó.
93. Hơn nữa, có nhiều giáo dân độc thân lại giữ vai trò bất khả
thay thế trong Hội Thánh. Hội Thánh cũng nuôi dưỡng nhiều lối sống độc thân
khác nhau, nhưng tất cả những lối sống đó, cách này hay cách khác, đều là một lời
mời gọi phục vụ Hội Thánh và phát triển sự hiệp thông theo những cung cách
tương tự như làm cha làm mẹ.
94. Đời sống độc thân đích thực (dù là người giáo dân, người có chức thánh, hay
người góa bụa) tất cả đều phải hướng về đời sống cộng đoàn hay xã hội. Làm một
“người cha thiêng liêng” hay “người mẹ thiêng liêng” – chẳng hạn như một linh mục
hay một tu sĩ, nhưng cũng có thể như một người cha hay người mẹ đỡ đầu, hay một
người cha mẹ nuôi, hay một giáo lý viên hay một thầy cô giáo, hoặc chỉ làm một
người dìu dắt hay làm một người bạn – đều là một ơn gọi đáng quý trọng, một điều
gì đó thiết yếu cho một cộng đoàn Kitô lành mạnh và phát triển.
95. Thánh Gioan Phaolô II từng suy tư về những phẩm chất người mẹ của Mẹ
Têrêsa, và, suy rộng ra, về sự sinh hoa trái và tính phong nhiêu thiêng liêng của
đời sống độc thân một cách tổng quát hơn:
Chẳng phải chuyện lạ lùng gì khi gọi một
tu sĩ là “mẹ” cả. Nhưng danh xưng này lại có một cường độ đặc biệt đối với Mẹ Têrêsa. Một người mẹ được nhìn nhận
là mẹ bởi chính khả năng dâng hiến bản thân mình. Cứ nhìn xem cung cách, thái độ,
lối sống của Mẹ Têrêsa là chúng ta hiểu được danh xưng đó có ý nghĩa thế nào đối
với vị nữ tu này, ngoài chiều kích thuần
túy thể chất, để là một người mẹ. Chính điều đó làm cho Mẹ đi đến tận cội rễ
thiêng liêng của thiên chức người mẹ.
Chắc hẳn ta đã biết rõ đâu là bí quyết của
Mẹ: đó là Mẹ đã được tràn đầy Chúa Kitô, và do đó, Mẹ nhìn mọi người bằng đôi mắt
và trái tim của Chúa Kitô. Mẹ đã hiểu nghiêm túc lời Chúa phán: “Ta đói, các
con đã cho ta ăn.” Cho nên Mẹ đã không bối rối khi “nhìn nhận ” những người
nghèo là con cái Mẹ.
Tình yêu nơi Mẹ rất cụ thể và bạo dạn, thôi thúc Mẹ đi tới những nơi ít ai có can đảm
đi tới, những nơi mà sự nghèo khổ khiến người ta phải ghê sợ.
Không lạ gì thiên hạ của thời đại này trở
nên mê mẩn vì Mẹ. Mẹ là hiện thân của tình yêu mà Chúa Giêsu đã chỉ ra như dấu
hiệu rõ rệt của môn đệ Người: “Cứ dấu này
thiên hạ sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, đó là anh em thương yêu
nhau” [2].
Những cuộc đời rạng ngời, như Chân phước Têrêsa thành Calcutta và Thánh Gioan
Phaolô II, cho ta thấy rằng bậc sống độc thân trong tất cả sự đa dạng của nó,
có thể là một lối sống đẹp và hấp dẫn.
Cơ sở và các khả năng của bậc độc thân
96. Ở phần đầu của tập giáo lý này, khi trích dẫn Thánh
Augustinô, ta đã thấy mục đích của việc sinh con cái không chỉ là để duy trì chủng
loại hoặc xây dựng xã hội dân sự mà thôi, nhưng còn là để xây đắp thành đô trên
trời với niềm vui của đời sống mới. Sự phân biệt này (giữa mục đích tự nhiên của
việc sinh sản và ơn gọi theo ý định Thiên Chúa để chuẩn bị cho Vương quốc Thiên
Chúa sum sê hoa trái) giúp Hội Thánh có thể thực hiện một điểm xa hơn: hoàn
thành định mệnh là những người nam và người nữ của mình, tất cả mọi người đều
có thể trổ sinh hoa trái, mà không cần hết mọi người đều phải kết hôn.
97. Hội Thánh cho thấy hôn nhân như một ơn gọi, một khả thể. Do đó, hôn nhân
không thể là một điều luật hay một yêu sách phải thực hiện để có được một đời sống
Công giáo thăng hoa[3]. Do đó,
bậc sống độc thân cần tồn tại trong đời sống cộng đoàn của Hội Thánh, ngõ hầu
hôn nhân là một vấn đề tự do hơn là một điều cưỡng bách. Bậc sống độc thân là một
tùy chọn nếu quả thực có hơn một cách để định đoạt đời sống giới tính của mình,
tính cách là nam hay là nữ cho Nước Trời. “Đời sống gia đình là ơn gọi Thiên
Chúa ghi tạc vào bản tính của người nam và người nữ, và có một ơn gọi khác bổ
sung cho hôn nhân: ơn gọi sống độc thân và khiết tịnh vì Nước Trời. Đó là ơn gọi
chính Chúa Giêsu đã sống”[4].
98. Đời độc thân và đời hôn nhân không đua tranh với nhau. Một lần
nữa, như Thánh Ambrôsiô đã dạy: “Chúng tôi không tán dương bất cứ bên nào để loại
trừ bên nào….Đây là điều làm nên tính phong phú của kỷ luật Hội Thánh”[5].
Bậc độc thân và bậc hôn nhân là những ơn gọi bổ sung cho nhau, bởi vì cả
hai đều công bố sự ân ái hay thân mật tính dục không thể là một sự gì để thử[6].
Cả người độc thân lẫn người kết hôn nhân đều tôn trọng cấu trúc của tình yêu
giao ước và tránh hành vi thân mật có tính cách “thử” hoặc có điều kiện[7].
Cả bậc độc thân lẫn bậc hôn nhân đều bác bỏ tính dục trong bối cảnh của
điều Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là “nền văn hóa vứt bỏ”[8].
Cả bậc độc thân lẫn bậc hôn
nhân đều từ khước những quan hệ tình dục chỉ nhằm thỏa mãn sự thèm khát mà thôi.
99. Giữ gìn kỷ luật của bậc sống độc thân và bậc sống hôn nhân là hai cung cách
để người nam và người nữ liên đới với nhau mà không có sự lợi dụng tình dục. Độc
thân và hôn nhân là hai cung cách sống duy nhất quy về kết luận này: hôn nhân
là hình thức nhân bản đầy đủ cho những hành vi hướng tới việc truyền sinh dưới
ánh sáng của kế hoạch Thiên Chúa vốn tiềm tàng nơi chúng ta và định hình nên cuộc
sống chúng ta. Đời sống độc thân (không phải chỉ gồm các linh mục và tu sĩ có lời
khấn hứa, mà bao gồm tất cả những ai sống khiết tịnh bên ngoài hôn nhân) chính
là lối sống dành cho những ai không kết hôn mà vẫn tôn trọng các giao ước.
100. Tất cả những gì Hội Thánh đã dạy về sự kiện chúng ta được dựng nên để hưởng
niềm vui, được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, về nhu cầu yêu thương và được
yêu thương, được áp dụng một cách đồng đều cho cả người độc thân lẫn người có
gia đình. Bậc sống độc thân có thể được xác định và bền vững, như trường hợp đời
sống tu trì có lời khấn, hoặc trường hợp những người không thể kết hôn do khuyết
tật hay có hoàn cảnh đặc biệt, hoặc chỉ độc thân thường xuyên tạm thời thôi,
như trường hợp của một người trẻ đang tìm hiểu ơn gọi của mình. Trong tất cả
các trường hợp này, người sống độc thân bước theo Chúa Giêsu, được triển nở nhờ
dâng hiến bản thân cho Thiên Chúa, tín thác vào kế hoạch của Ngài, và xây dựng
một đời sống đặt nền tảng trên tình yêu
thương tha nhân với lòng lân tuất, kiên nhẫn, quảng đại, và tinh thần phục vụ.
101. Trong xã hội nào đó, nhiều người sẽ bị gạt ra bên lề nếu người ta nhìn hôn
nhân như một điều bắt buộc, như thể người ta cần thiết phải có một đối tác lãng
mạn để cho đủ bộ. Đời sống độc thân trong Hội Thánh nhất quyết chống lại tư tưởng
lầm lạc này. Chẳng hạn, những người góa bụa thường bị gạt qua một bên trong những
xã hội truyền thống, còn những người độc thân
trong các đô thị hiện đại lại thường hòa nhập vào xã hội bằng cách tham
gia các câu lạc bộ, lui tới các tửu quán, trà đình ở đó sự lang chạ tình dục là
chuyện thông thường. Tạo nên một không gian thay thế, trong đó người chưa kết
hôn có thể hưởng niềm vui và có một sứ vụ, đó là một sự hiếu khách sâu xa, là
điều mà các Kitô hữu cần phải giúp nhau thực hiện như một dạng thức giải phóng
và đón tiếp.
102. Một số người, do những hoàn cảnh vượt khỏi tầm kiểm soát của mình, vẫn muốn
kết hôn, nhưng lại không thể tìm được người phối ngẫu cho mình. Một đời hi vọng
và chờ đợi không có nghĩa là để mình rơi vào tình trạng sống một đời son sẻ.
Khi sống trong tình trạng tích cực sẵn sàng đón nhận Thánh ý Chúa như được biểu
lộ ra trong lịch sử riêng của đời mình, bằng cách cũng thưa xin vâng như chính Đức Maria[9],
ơn phúc có thể tuôn đổ xuống cho ta. Vì mọi người đều được mời gọi để
trao ban và lãnh nhận tình yêu, bởi vì tình yêu Kitô giáo là hướng ra đi tới
tha nhân, bậc sống độc thân là một thực hành cho đời sống chung. Khi chúng ta
thương yêu thương nhau một cách trong sạch ngoài hôn nhân, hoa trái sẽ là tình
bằng hữu: “Nhân đức khiết tịnh trổ sinh tình
bằng hữu… Nhân đức ấy biểu lộ đặc biệt trong tình bằng hữu với người lân cận. Dù nhân đức ấy phát triển giữa những
người cùng hay khác giới tính, tình bằng hữu này vẫn là một điều thiện hảo lớn cho tất cả mọi người. Đức khiết
tịnh dẫn tới sự hiệp thông tinh thần”[10].
103. Người độc thân (và trong một mức độ nào đó cũng tương tự, những cặp vợ chồng
không con) cũng đều hưởng một sự tự do độc đáo, một thứ tự do hấp dẫn cho một số
loại việc phục vụ, tình bằng hữu và cộng đồng. Người độc thân và người không có
con đều tương đối thuận tiện hơn cho những thử nghiệm giữ khiết tịnh trong đời
sống cộng đồng, cho những nghề nghiệp đòi hỏi có sự uyển chuyển, cho việc cầu
nguyện và chiêm niệm. Người độc thân và vợ chồng không con, và cả những người
cao niên mạnh khỏe (có khi con cái đã lớn) đều có được những ơn ban về thời
gian theo nhiều cách mà các người làm cha mẹ thường không có được. Những người
như thế có thể say mê với việc dạy giáo lý và những tác vụ khác của giáo xứ,
hay cả đến những việc tông đồ và việc làm chứng tá trong những tình huống hiểm
nghèo thường là bất khả đối với những gia đình có con cái. Người không lập gia
đình cũng như người không con được hưởng sự rảnh rang cho phép họ có nhiều tự do và sáng tạo hơn về những khả năng
thể hiện lòng hiếu khách và tình thân thiện. Khi Thánh Phaolô khuyên nhủ bậc độc
thân, ngài nghĩ ngài đề nghị một khả năng tuy có những thách đố nhưng cũng chứa
đựng những lợi ích và tự do: “Nhưng nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng có tội gì.
Và nếu người con gái lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì. Tuy nhiên, những người
ấy sẽ tự chuốc lấy những nỗi gian truân khốn khổ, mà tôi thì muốn cho anh em
thoát khỏi điều đó…. Tôi muốn anh em không phải bận tâm lo lắng điều gì” (1Cr 7, 28-32a).
Sự liên kết giữa độc thân và hôn nhân về mặt thiêng liêng và xã
hội
104. Sách Giáo lý Hội
thánh Công giáo dạy: “Mọi Kitô hữu đều được mời gọi sống khiết tịnh phù hợp
với bậc sống riêng của mình. Khi lãnh nhận Phép Rửa, Kitô hữu đã cam kết điều
khiển đời sống tình cảm của mình trong đức khiết tịnh”[11]. Do đó, bậc độc thân liên kết với bậc
hôn nhân, làm thành một của lễ thiêng liêng của toàn thể con người chúng ta
dâng cho Chúa. Cả người độc thân lẫn người có gia đình đều cam kết hiến đời
mình cho giao ước Thiên Chúa đúng theo ơn gọi của bậc sống mình. Có những dị biệt
thực tế trong ơn gọi riêng của mỗi người, nhưng động lực bên trong của linh hồn,
sự dâng hiến của con tim, chủ yếu là giống nhau. Những người độc thân và những
đôi vợ chồng khôn ngoan, trưởng thành đều quen với những kỹ năng thiêng liêng
tương tự.
105. Trong đời hôn nhân, khi người chồng và người vợ tự trao hiến cho nhau, bằng
một tình yêu noi gương Chúa Giêsu, sự trao hiến bản thân cho nhau, là một phần
của công trình của Đức Kitô, kết hợp trong cùng một tinh thần của Chúa Giêsu
trao ban chính mình cho Hội Thánh. Khi đôi phối ngẫu trao cho nhau lời hôn thệ
của họ trong thánh đường lúc cử hành phụng vụ Bí tích Hôn phối, Đức Kitô đón nhận
tình yêu hôn nhân của họ và làm cho tình yêu ấy nên một thành phần của tặng phẩm
Thánh Thể của chính Người ban cho Hội Thánh, và Chúa Cha, Đấng hài lòng bởi hy
tế của Chúa Con, lại ban Chúa Thánh Thần cho đôi phối ngẫu để đóng ấn sự kết hiệp
của họ[12].
Sự phong nhiêu của hôn nhân trước hết là tặng phẩm dành cho nhau và nghĩa vụ của
dây liên kết bí tích. Đây chắc chắn là lý do tại sao Thánh Gioan Phaolô II đã
nói cách tuyệt vời rằng mối liên kết hôn phối mà đôi phối ngẫu nhận lãnh để hưởng
và sống, làm cho họ trở thành “lời nhắc nhở thường xuyên cho Hội Thánh về điều
đã diễn ra trên Thập giá. Họ là nhân chứng cho nhau và cho con cái về ơn cứu độ
mà Bí tích đã làm cho họ được dự phần”[13].
106. Trong trường hợp bậc độc thân, ta cũng suy ra tương tự. Tình yêu Chúa Kitô
là trọn vẹn bởi vì Ngài trao ban trọn mình Ngài, một sự khẳng định vô điều kiện
đối với tha nhân: “Người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16,26) Tình yêu của Chúa Kitô được biểu
lộ trong khát vọng của Người muốn chia sẻ trọn bản thân cho các môn đệ (Lc 22,15), để ban chính mình Người cách
trọn vẹn hầu đem hết mọi người về cùng Chúa Cha để chia sẻ vinh quang Thiên
Chúa.[14]
Tình yêu hôn nhân là căn bản của giao ước định hình cho việc truyền sinh;
còn tình yêu nơi người độc thân là căn bản của giao ước mang đến sự sống trong
toàn thể cộng đoàn.
107. Vì đời sống hôn nhân và đời sống độc thân là những ơn gọi bổ sung cho nhau
đối với những người Công giáo trưởng thành, ta cần phải dạy cho người trẻ hiểu
được rằng một bạn tình lãng mạn không phải là điều thiết yếu cho hạnh phúc con
người. Nếu chính hôn nhân được hình thành từ giao ước của Chúa Giêsu với chúng
ta, và nếu cũng chính giao ước đó làm cho bậc độc thân cũng là một chọn lựa
đúng đắn có thể thành tựu được, thì cuộc đời của những người trẻ chưa lập gia
đình sẽ được hiểu đúng đắn hơn, không cứ sống lao mình vào việc tán tỉnh hay “hẹn
hò”, nhưng như một thời kỳ phân định và vun trồng tình bằng hữu. Những tập quán
và kỹ năng của tình bằng hữu chân thực là cơ sở cho cả đời sống hôn nhân lẫn đời
sống cộng đoàn độc thân. Vấn đề ơn gọi vốn đặt ra cho thanh thiếu niên và những
người trẻ khác ngày nay cần thu hút cả tâm trí nhiều hơn là chỉ để ý đến sở
thích lãng mạn không thôi. Người trẻ cần đắc thủ những kỹ năng tinh thần thuộc
nội tâm cho dù sau này trong cuộc sống tương lai họ đảm nhiệm việc gì.
108. Bởi thế, giáo xứ cần phải chú ý cẩn thận đến chiều kích xã
hội của đức khiết tịnh và đời sống độc thân. Đời sống độc thân đặt ra những
thách đố độc đáo, và, như Sách Giáo lý Hội thánh Côn giáo nhận xét, việc học tập
sự tự chủ về tính dục có một nét văn hóa: chúng ta là những con người phụ thuộc
lẫn nhau, và sự thực hành đức khiết tịnh vừa được giúp đỡ vừa bị ngăn trở bởi
chính hoàn cảnh xã hội chúng ta.[15]
Những khả năng trong đời sống mà người trẻ nghĩ tưởng ra được lại tùy thuộc
vào những gương mẫu họ thấy và những câu chuyện họ nghe.
109. Vì đời sống độc thân đi ngược lại nếp văn hóa thông thường
như thế, nguy cơ có thể xảy ra là ngay trong các giáo xứ người ta cũng có thể
không hiểu được hết vấn đề. Người độc thân “đáng được hưởng sự yêu thương đặc
biệt và chăm sóc tích cực của Hội Thánh, nhất là các mục tử”[16].
Không chỉ các mục tử, nhưng
chính các gia đình và những người độc thân cũng phải có những bước cụ thể để đảm
bảo rằng “độc thân” trong bối cảnh Công giáo rõ ràng không phải là giống như
tình trạng bị cô đơn hay cô lập. Người độc thân cần có bạn hữu để sẻ chia những
gánh nặng và buồn phiền của họ, cũng như sự khả tín và những cơ hội phục vụ của
họ. “Cánh cửa các ngôi nhà, những ‘Hội thánh tại gia’ của gia đình vĩ đại vốn
là Hội Thánh cần phải rộng mở” cho các người không lập gia đình[17].
110. Lối nhìn này nhắc nhở mọi người cần xem xét lại mình đã
đóng góp ra sao cho bầu khí và điều kiện vật chất của đời sống giáo xứ. Nếu cha
mẹ làm nản chí con cái về ơn gọi linh mục, về đời sống tu trì có lời khấn, hoặc
những ơn gọi độc thân khác, thì toàn thể cộng đồng cần phải xét lại lương tâm của
mình. Bậc sống độc thân đích thực luôn luôn mang đậm tính xã hội, và nếu bậc sống
này bị coi như cô đơn hay gàn dở một cách dị thường, thì một điều gì đó trong
cách thực hành hay trong cấu trúc đời sống cộng đồng đã bị lệch lạc. Người độc
thân cần phải có những sáng kiến để phục vụ và dấn thân, và các gia đình cần phải
biểu lộ lòng hiếu khách, đón nhận những ‘cô / dì,’ ‘chú / bác,’ và mở rộng tình
thân bằng cách kiến tạo những gia đình nới rộng hay những cộng đoàn cùng chung
chí hướng.
111. Một đời sống xã hội phong phú khiến cho tất cả mọi kiểu sống độc thân trở
nên đáng tin cậy nhiều hơn đối với mọi người, vì nó sẽ làm vơi bớt đi sự chỉ
trích cho rằng một đời sống như thế sẽ không tránh khỏi cô đơn. Để sống theo lối
nhìn ấy, để thắng vượt quán tính của lề thói xã hội cứ cô lập người độc thân và
coi nhẹ những cơ hội của bậc sống này, đòi hỏi sự dấn thân đầy sáng kiến của
giáo dân cũng như hàng giáo sĩ. Đức Giêsu là Chúa chúng ta, và Người đã phán:
“Mọi người sẽ biết anh em là môn đệ Thày, nếu anh em yêu thương nhau” (Ga 13,35). Tình yêu phải làm sinh động đời
sống giáo xứ một cách nhãn tiền đối với mọi người.
112. Bậc sống độc thân không phải là son
sẻ, cũng chẳng phải là “lẻ loi” theo nghĩa bị cô lập hay tự trị, tự quản. Trong
Hội Thánh, tất cả mọi người chúng ta đều tương thuộc, chúng ta được dựng nên để
sống hiệp thông, được dựng nên để cho và đón nhân tình yêu. Lối nhìn này về đời
sống con người sản sinh ra những ơn gọi đầy tính sáng tạo và vô cùng đa dạng. Bậc
sống độc thân đặt ra những yêu cầu độc đáo đối với những ai yêu thích bậc sống
này. Nhưng người độc thân cũng có những đặc ân và cơ hội độc đáo. Người độc thân
tôn trọng tiềm năng sinh lý và tính dục của bậc hôn nhân, và hoạt động do một
lý do cơ bản tương tự và linh đạo hiến thân. Người độc thân và các đôi vợ chồng
cần có nhau để tồn tại và phát triển “gia đình của các gia đình” được gọi
là Hội Thánh.
Câu
Hỏi Thảo Luận
a) Bậc sống độc thân và bậc sống hôn nhân có chung những điểm
nào?
b) Một số những thử thách và gánh nặng người không lập gia đình
gặp phải trong cộng đồng bạn là gì? Bạn hữu, gia đình và giáo xứ có thể giúp đỡ
như thế nào?
Đâu là những lợi ích của bậc sống độc thân? Người không lập gia đình có thể phục
vụ cộng đồng ra sao?
c) Trẻ em trong giáo xứ bạn có được gặp gỡ nhiều loại linh mục,
tu sĩ dòng, tu sĩ tu hội, nữ tu dòng, và các chị em thuộc các tu hội khác
không? Bạn có thể nghĩ ra cách thức để giới thiệu những mẫu gương bậc sống độc
thân cho cộng đoàn của bạn không?
Có bao giờ bạn từng khuyến khích trẻ em mà bạn quen biết trở
thành linh mục hay tu sĩ không? Tại sao có hoặc tại sao không?
d) Đâu là những lý lẽ hay để chọn đời sống hôn nhân hoặc đời sống
tu trì?
Đâu là những lý lẽ không được hay như thế? Làm thế nào để biện phân được ơn gọi
của mình?
[1] Tóm lược GLHTCG (2005), 321.
[2] ĐGH
Gioan Phaolô II, Diễn văn “Gặp gỡ với các gia đình nhận con nuôi do tổ chức Các
Thừa Sai Bác Ái”, 05.09.2000.
[4] ĐGH
Phanxicô, Diễn văn “Gặp gỡ giới trẻ tại Umbria”, Assisi, 04.10.2013.
[5] Cf. GLHTCG, 2349. Cf. St Ambrose, De viduis 4.23. Cũng nen xem số 51 trên
đây.
[6] Cf. GLHTCG, 1646. Xem như trên, 58.
[7] Cf. GLHTCG, 2391. Xem như trên, 58.
|
|
Tin/Bài mới
Tin/Bài khác
|
|