ĐẠI
PHÚC
Ai
cũng cầu PHÚC (Phước). Trong ba thứ
quan trọng, Phúc đứng thứ nhất:
Phúc – Lộc – Thọ. Còn Chúa
Giêsu có Bát Phúc – tám loại
Phúc.
Chữ
PHÚC liên quan chữ ĐỨC. Chữ Đức
thường “đi trước” chữ
Phúc. Có Đức thì mới có
Phúc. Nhưng Việt ngữ thường nói
Phúc Đức. Muốn có Phúc phải
có Đức, muốn có Đức phải
có Tâm, cái Tâm phải bền bỉ
nên liên quan chữ Nhẫn.
Chữ
Phúc là biểu tượng của sự
may mắn, niềm sung sướng, thường
dùng là HẠNH PHÚC. Từ lâu,
người Á Đông đã có
nhiều hình tượng biểu thị chữ
Phúc, như ngày nay người ta còn
thấy trong nhiều vật trang trí, kiến
trúc, và cả trên y phục.
Theo
phong tục văn hóa Trung quốc, người
ta thường treo hoặc dán chữ “Phúc”
để cầu “Phúc” cho gia đình
trong năm mới. Nhưng chữ Phúc lại
được treo ngược, nghĩa là nó
bị “đảo”, mà âm “phúc”
và âm “đảo” đọc liền
nhau sẽ trở thành “phúc đáo”
(“đáo” là “đến”),
tức là “phúc đến nhà”.
Nghịch mà hóa thuận, ngược mà
lại tốt.
Chữ
Phúc bao gồm những điều tốt lành.
Kinh Thi nói về “ngũ phúc” (năm
điều phúc) là: (1) 富
[giàu],
(2) 安
寧 [yên
lành], (3) 壽
[thọ]
(4) 攸
好 德 [có
đức tốt], (5) 考
終 命 [vui
hết tuổi trời]. Có nhiều sách
nói “ngũ phúc” là: 富
(phú),
貴
(quý),
壽
(thọ),
康
(khang),
寧
(ninh).
Chuyện
cổ tích “Chiếc Cầu Phúc Đức”
kể rằng...
Ngày
xưa có anh chàng chuyên sống về
nghề ăn trộm. Trong nhà còn có
mẹ già phải nuôi. Tuy có lúc
được nhiều, có lúc được
ít, nhưng trong nhà không bao giờ có
của để dành, hai mẹ con thường
phải chịu bữa no, bữa đói.
Một
hôm, nhân ngày giỗ cha, mẹ chàng
ôn lại cho chàng nghe cuộc đời
của ông và cha chàng. Xưa kia ông
nội của chàng cũng làm nghề ăn
trộm, có đêm kiếm được
những món rất đáng giá, nhưng
khi nhắm mắt xuôi tay cũng không để
lại cho cha chàng được chút gì.
Rồi
đến đời cha chàng. Lớn lên,
không biết chọn nghề gì khác
tốt hơn, cha chàng lại nối nghề
ông cụ, đến đêm lại đi
rình mò hết làng trên xóm
dưới mà cũng không bao giờ kiếm
được nổi hai bữa cho hai vợ chồng
và đứa con. Rồi cha chàng chết
đi cũng không có gì để lại.
Nay đến đời chàng, lao theo cái
nghề này đã hai chục năm rồi
mà tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Đã
vậy, chàng cũng không tìm được
nổi một người vợ, mặc dầu đã
gần bốn chục tuổi.
Ôn
lại đời cha ông xưa và nhìn
cuộc đời mình, chàng không khỏi
ngán ngẩm. Một đêm, chàng đến
rình nhà ông thầy đồ ở xóm
bên, định ăn trộm cái thủ
lợn mà một nhóm học trò mang
đến biếu. Rình mãi tới khuya,
ông thầy vẫn chưa đi ngủ, ông
đọc hết trang sách này tới trang
sách khác. Chợt ông thầy đọc
tới câu: “Tích
thiện chi gia tất hữu dư hương; tích
bất thiện chi gia tất hữu dư ương”.
Chàng bụng bảo dạ: “Phải
chăng ông cha ta làm NGHỀ THẤT ĐỨC
nên để khổ nhục lại cho ta?”.
Rồi chàng tự trả lời: “Phải,
quả thật đúng như vậy”.
Đoạn chàng chạy một mạch về
nhà, quyết TỪ BỎ nghề ăn trộm.
Sáng
hôm sau, chàng vác búa vào rừng
hái củi và mang ra chợ bán. Công
việc rất vất vả, hái được
một gánh củi chàng phải đổi
một bát mồ hôi để có được
một món tiền mua gạo, nhưng chàng
thấy AN TÂM hơn mọi ngày. Tuy vậy,
đi đến đâu, chàng cũng nghe
tiếng người xì xào: “Cẩn
thận đấy! Cái thằng ba đời
ăn trộm đã đến đó!”.
Cái tiếng “ba đời ăn trộm”
làm cho chàng buồn bã. Chàng nghĩ:
“Từ
nay ta phải làm những việc gì PHÚC
ĐỨC thì họa may mới xóa được
mấy tiếng đó”.
Một
ngày mùa hạ, trời mưa to, nước
lũ tràn về. Chàng đem củi đi
chợ bán, vì nước lũ tràn
về nhanh quá, không thể lội qua sông
như mọi hôm được. Hàng trăm
người ùn lại vì chưa có
đò, mặt trời đã khuất sau
rặng núi, mà mọi người vẫn
loay hoay ở bờ sông. Chàng bèn nghĩ
tới việc bắc một cái cầu. Đêm
ấy, ngủ lại bến sông cùng với
nhiều người khác, chàng đem
chuyện bắc cầu ra hỏi bà con, nhiều
người nói: “Đó
là ĐIỀU PHÚC ĐỨC được
muôn ngàn người nhớ ơn. Trước
đây cũng đã có người
làm nhưng rồi lại bỏ dở”.
Sáng
hôm sau, nước rút, chàng lội
sông về nhà. Tới nhà, chàng
đem ý định bắc cầu ra hỏi ý
kiến mẹ. Mẹ chàng rất vui và
giục chàng dốc sức bắc cầu. Từ
đó, cứ sáng chàng lên rừng
chặt cây; trưa cố hái thêm một
gánh củi để về cho mẹ đi
chợ; chiều ra sức chuyển gỗ làm
cầu.
Chàng
làm việc quên ngày tháng. Buổi
chặt cây, buổi chuyển gỗ, buổi
bắc cầu, không bao lâu đã bắc
được hơn chục sải cầu. Công
việc còn nhiều nặng nhọc vì con
sông rộng gần hai trăm sải. Vì ăn
đói mà làm nhiều nên chàng
bị kiệt sức. Một hôm, chàng đói
quá nên nằm lăn ra mê man ở đoạn
cầu đang làm dở. Những người
đi qua xúm lại cứu chữa, nhưng
chàng vẫn chưa hồi tỉnh.
Lúc
đó có một viên quan võ đi
đến, thấy một đám đông
đang xúm quanh một người nằm sóng
soài, viên quan xuống ngựa đến
gần hỏi chuyện. Mọi người cho biết
đây là anh chàng đang bắc cầu
làm phúc thì mệt quá mà ngất
đi. Viên quan liền mở túi lấy
thuốc cho chàng uống.
Được
một lúc, chàng tỉnh lại, mọi
người tản dần ra về, viên quan
ngồi lại bên chàng ân cần hỏi
chuyện. Chàng thật thà kể hết
cho ông nghe cuộc đời của mình và
nói rõ ý định cùng công
việc đang làm. Viên quan nghe nói ra
chiều cảm động, ông ngồi ngẫm
nghĩ hồi lâu rồi nói: “Xưa
kia cha ông chàng làm nghề thất đức
để cho chàng ngày nay phải đói
nghèo. Nay, chàng muốn làm điều
phúc đức để chuộc lỗi lầm
xưa kia, quả là hay vô cùng. Về
phần tôi, tôi xin nói thật: cha tôi,
ông tôi, ông cụ, ông kỵ tôi,
đời đời làm quan ức hiếp dân
lành, bóp hầu bóp cổ để
nã tiền, nã của. Đấy cũng
là ĐIỀU THẤT ĐỨC, vì vậy
đến tôi ngày nay trời quả báo:
lấy vợ đã hơn hai mươi năm
rồi mà không có một đứa
con để vui cửa vui nhà, cho nên, tuổi
đã ngoài bốn mươi, chúng
tôi vẫn phải sống hiu quạnh. Nay tôi
cũng muốn làm điều phúc đức
để chuộc lỗi lầm xưa, chẳng
hay chàng có cho tôi góp sức cùng
nhau bắc cầu được không?”.
Chàng
bắc cầu vui mừng nói: “Nếu
quan lớn có chí hướng như vậy
thì cái cầu này sẽ chóng
xong, dân chúng sẽ mau được qua
lại, còn gì tốt hơn!”.
Hai người bèn cho nhau biết tên tuổi,
quê quán, rồi kết nghĩa huynh đệ.
Viên quan võ hơn chàng bắc cầu
bốn tuổi nên là anh. Chàng bắc
cầu nói: “Em
còn có mẹ già ở nhà, vì
nhà nghèo, phải bán củi lấy
tiền mua gạo cho nên ngày nào em cũng
phải đem củi về nhà để sáng
hôm sau mẹ đem củi ra chợ bán lấy
tiền”.
Viên quan võ thân mật bảo chàng:
“Anh
có nhiều tiền của, anh sẽ bỏ ra
nuôi mẹ để em khỏi phải bận
tâm, như vậy chúng ta sẽ chuyên
chú vào việc bắc cầu, em nghĩ
thế nào?”.
Chàng bắc cầu nói: “Nếu
vậy thì còn gì hay hơn!”.
Từ
đấy, hàng ngày hai anh em cùng nhau
lên núi đốn cây, chuyển gỗ.
Chẳng bao lâu, hai người đã dựng
xong chiếc cầu gỗ hơn hai trăm sải.
Dân chúng ai cũng vui mừng, họ đặt
tên là CẦU PHÚC ĐỨC. Các
cụ hai làng hoan hỉ cùng nhau bàn
định góp tiền làm một bữa
tiệc ăn mừng chiếc cầu hoàn
thành.
Ngày
ăn mừng chiếc cầu, các vị bô
lão và tất cả dân chúng quanh
vùng nô nức đến dự, ai cũng
cầu xin Thượng Đế ban phúc cho hai
người bắc cầu, họ ăn uống
linh đình suốt cả buổi sáng.
Bỗng một cơn gió bất chợt kéo
đến, gió thổi mạnh, làm cúi
rạp ngọn cỏ nghiêng ngả cành
cây. Gió thổi mỗi lúc một mạnh,
rồi bất thình lình cuốn anh chàng
bắc cầu đi mất. Viên quan võ thất
thanh kêu gọi, tất cả mọi người
đều ngậm ngùi.
Thấy
người em kết nghĩa của mình hết
lòng hết sức hàng ba năm trời ra
làm cầu mà lại không được
hưởng phúc, viên quan xót xa lắm.
Sau khi mọi người đã ra về, ông
đón vợ sang ở chung với bà cụ
để sớm hôm trông nom, phụng dưỡng
bà thay người em kết nghĩa.
Chàng
bắc cầu bị gió lốc cuốn tới
một cái hang trên một ngọn núi
cao. Chàng lảo đảo đứng chưa
kịp vững, cơn gió bỗng vụt hóa
thành người tươi cười nói
với chàng: “Nhà
ngươi chớ sợ, ta là Thần Gió
được Ngọc Hoàng sai đi đón
nhà ngươi về đây để
thưởng cho ngươi cái công thành
tâm làm chuyện phúc đức. Bạc
vàng đấy, nhà ngươi muốn lấy
bao nhiêu thì lấy”.
Chàng
bắc cầu nhìn vào hang thấy đống
vàng sáng chói. Chàng cởi áo
gói lấy một số vàng, rồi buộc
lại cẩn thận, chàng vác gói
vàng lên vai, tiến ra cửa hang, Thần
Gió lại hóa thành cơn gió lốc
cuốn chàng đi, trả về bản và
đặt chàng nhẹ nhàng xuống giữa
sân nhà. Chàng bắc cầu sung sướng
để gói vàng xuống rồi lên
tiếng gọi cửa. Nghe tiếng gọi, mẹ
chàng và hai vợ chồng viên quan võ
tưởng là hồn chàng bắc cầu
hiện về, liền dắt nhau lại ngồi
quanh chiếc bàn thờ thắp hương
khấn vái lầm rầm. Nhìn qua kẽ
liếp thấy ba người vừa cúi lạy,
vừa khấn, chàng bắc cầu bật cười
lại một lần nữa chàng lên tiếng
gọi: “Mẹ
ơi! Con đây mà! Anh ơi! Em đây
mà! Mẹ ơi! Con hãy còn sống trở
về nhà đây, mau mau mở cửa đi!”.
Nghe rõ tiếng gọi của con, bà mẹ
mừng quýnh. Vợ chồng viên quan võ
vội chạy ra mở cửa, đón người
em kết nghĩa.
Chàng
bắc cầu ngồi xuống kể lại ngọn
ngành câu chuyện được Thần
Gió đưa đi lấy vàng cho cả
nhà nghe, mọi người reo mừng sung
sướng. Từ đó, mẹ con chàng
bắc cầu bắt đầu trở nên giàu
có, chàng mời hai vợ chồng người
anh kết nghĩa ở lại và cùng nhau
làm ăn. Ít lâu sau, vợ viên quan
võ có thai, đến ngày sinh, chị
sinh được một bé trai. Hai vợ
chồng mừng vô kể. Ít lâu sau,
chàng bắc cầu cũng lấy vợ, có
con, và sống hạnh phúc đến già.
Câu
chuyện này nhắc chúng ta phải từ
bỏ quá khứ tội lỗi, cố gắng
tu thân tích đức để được
hưởng phúc ấm!
Khi
chúng ta (Giáo hội Chiến đấu)
mừng kính chư vị hiển thánh
(Giáo hội Chiến thắng) và tưởng
niệm các linh hồn nơi luyện hình
(Giáo hội Đau khổ), đó là
dịp xem lại các Mối Phúc Thật
của Đức Giêsu Kitô. Các thánh
đã sống trọn các mối phúc
nên đang được hưởng phúc
trường sinh, điển hình là các
vị thánh tử đạo Việt Nam –
và hàng trăm ngàn vị tử đạo
Việt Nam khác. Việc tôn phong một Kitô
hữu nào đó là “tôi tớ
Chúa”, là “bậc đáng
kính”, là “chân phước”
(á thánh, thánh nhỏ), hoặc “thánh”
(hiển thánh, thánh lớn) chỉ là
kiểu “thủ tục hành chính”
cho hợp lệ để công khai hóa đối
với Giáo hội hữu hình, chứ các
vị đó đã là thánh từ
trước khi “được” chúng
ta “công nhận” rồi.
Còn
các linh hồn là các vị thánh
tương lai, chắc chắn các ngài
cũng sẽ hưởng phúc trường
sinh nay mai, trong đó có thân bằng
quyến thuộc của chính mỗi chúng
ta. Các thánh và các linh hồn nơi
luyện hình đều đã là những
phúc nhân – người có phúc.
Mỗi dịp lễ cầu hồn, rất nhiều
linh hồn được hưởng nhờ Lòng
Thương Xót của Chúa, và trên
trời lại hân hoan tiếp nhận vô
vàn các Tân Thánh Nhân. Tạ ơn
Thiên Chúa yêu thương vô vàn!
Theo
nghĩa đó của Công giáo, chúng
ta có hai dạng phúc: Phúc-Hiện-Tại
và Phúc-Tương-Lai. Phúc-hiện-tại
là tình trạng của các thánh
đang ở Thiên đàng, Phúc-tương-lai
là tình trạng của các linh hồn
đang được thanh tẩy nơi luyện
hình.
PHÚC
HIỆN TẠI
Trình
thuật Mt 5:1-12 là Bản Tuyên Ngôn Độc
Lập của Thiên Quốc do chính Chúa
Giêsu soạn thảo, và là Đệ
Nhất Tuyên Ngôn so với bất kỳ Bản
Tuyên Ngôn nào của các quốc gia
trên thế giới. Bản Tuyên Ngôn này
ngắn nhất, ít điều khoản nhất,
mỗi điều khoản cũng ngắn gọn,
nhưng lại chính xác nhất và độc
nhất vô nhị. Bản Tuyên Ngôn này
còn được gọi là Bát Phúc,
Tám Mối Phúc Thật, hoặc Bài
Giảng Trên Núi.
Bản
Tuyên Ngôn Thiên Quốc này chỉ
bao gồm 8 điều khoản:
1.
Phúc thay ai có tâm hồn NGHÈO KHÓ,
vì Nước Trời là của họ.
2.
Phúc thay ai HIỀN LÀNH, vì họ sẽ
được Đất Hứa làm gia nghiệp.
3.
Phúc thay ai SẦU KHỔ, vì họ sẽ
được Thiên Chúa ủi an.
4.
Phúc thay ai KHÁT KHAO nên người công
chính, vì họ sẽ được Thiên
Chúa cho thoả lòng.
5.
Phúc thay ai XÓT THƯƠNG người, vì
họ sẽ được Thiên Chúa xót
thương.
6.
Phúc thay ai có TÂM HỒN TRONG SẠCH,
vì họ sẽ được nhìn thấy
Thiên Chúa.
7.
Phúc thay ai XÂY DỰNG HOÀ BÌNH, vì
họ sẽ được gọi là con Thiên
Chúa.
8.
Phúc thay ai BỊ BÁCH HẠI vì sống
công chính, vì Nước Trời là
của họ.
Sau
khi phục sinh, Chúa Giêsu có thêm
“mối phúc thứ chín” vì
thấy Tông đồ Thomas không tin lời
kể của các bạn, Chúa Giêsu nói:
“Phúc
thay những người không thấy mà
tin!” (Ga
20:29). Mối phúc này có thể coi như
“mối phúc tổng hợp” của
tám mối phúc kia. Vì khi đã
tin thật lòng thì người ta không
ngại gì với tám thứ kia.
Những
người chưa có hoặc không có
đức tin đích thực thì chẳng
thể nào tin nổi, vì những gì
Chúa Giêsu cho là Phúc thì toàn
là những thứ “không bình
thường”, không giống ai, hoàn
toàn ngược đời, hết sức kỳ
quặc, và chắc hẳn họ sẽ cho là
khùng, là điên, là ngu xuẩn, là
dại dột,… Chúa Giêsu biết vậy
nên Ngài thường có kiểu nói
nghe chừng “tưng tửng” thế này:
“Ai
có tai thì nghe!” (Mt
11:15; Mt 13:9; Mt 13:43). Đại Sư Giêsu độc
chiêu thật đấy! Ai mà không có
tai chứ? Ấy thế mà nào có
nghe, cũng như có mắt mà không
thấy: “Họ
nhìn mà không nhìn, nghe mà không
nghe không hiểu” (Mt
13:13; Lc 8:10).
Chúa
Giêsu rất giản dị, có kiểu nói
ai cũng hiểu, ngay cả người mù chữ
cũng hiểu. Nghe rất sướng lỗ tai!
Ngài còn nói thêm như phần mở
rộng: “Phúc
thay anh em khi vì Thầy mà bị người
ta sỉ vả, bách hại và vu khống
đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui
mừng hớn hở, vì phần thưởng
dành cho anh em ở trên trời thật lớn
lao. Quả vậy, các ngôn sứ là
những người đi trước anh em cũng
bị người ta bách hại như thế”
(Mt
5:11-12).
Thánh
Gioan cho biết thị kiến về “một
trăm bốn mươi bốn ngàn người
được đóng ấn, thuộc mọi
chi tộc con cái Ít-ra-en” (Kh 7:2-4). Các
thánh mà chỉ bi nhiêu ư? Không
phải vậy. Con số 144.000 nghĩa là rất
nhiều, chứ không mang nghĩa “số
đếm” như cách tính của loài
người. Vả lại, theo ngôn ngữ Kinh
Thánh khải huyền, 144 là con số hoàn
hảo, vì 12 x 12 = 144. Họ là ai? Sách
Khải Huyền cho biết: “Họ
là những người đã đến,
sau khi TRẢI QUA CƠN THỬ THÁCH LỚN LAO.
Họ đã GIẶT SẠCH và TẨY
TRẮNG áo mình trong máu Con Chiên”
(Kh
7:13-14). Đó chính là các thánh
mà Giáo hội Lữ hành chúng ta
vẫn mừng kính vào ngày 1 tháng
11 hằng năm.
PHÚC
TƯƠNG LAI
Phúc-tương-lai
là Phúc mà các linh hồn nơi
luyện hình sẽ có lúc được
hưởng khi nào “mãn hạn tù
giam”. Phúc-tương-lai cũng là Phúc
dành cho chúng ta, những người đang
trên đường lữ hành, cố gắng
chiến đấu ngoan cường để có
ngày chiến thắng vẻ vang như các
thánh.
Thánh
Gioan Tông đồ cho biết một thị
kiến khác: “Tôi
thấy những người chết, lớn cũng
như nhỏ, đứng trước ngai. Sổ
sách đã mở sẵn; rồi một
cuốn khác cũng đã mở ra: đó
là Sổ Trường Sinh. Các người
chết ĐƯỢC
xét xử TUỲ THEO việc họ đã
làm,
chiếu theo những gì đã được
ghi chép trong sổ sách. Biển trả lại
những người chết nó đang giữ;
Tử thần và Âm phủ trả lại
những người chết chúng đang giữ,
và mỗi người CHỊU
xét xử TUỲ THEO các việc đã
làm.
Tử thần và Âm phủ bị quăng
vào hồ lửa. Hồ lửa này là
cái chết thứ hai. Ai không có tên
ghi trong Sổ trường sinh thì bị quăng
vào hồ lửa” (Kh
20:12-15). Việt ngữ thật hay khi diễn tả
hai cách thụ động: ĐƯỢC dùng
cho điều tốt, tích cực; CHỊU (bị)
dùng cho điều xấu, tiêu cực.
Các
linh hồn nơi luyện hình là những
người đã được cấp
Visa-Trường-Sinh chính thức, chắc ăn
100%, chỉ còn chờ “chuyến-bay-đại-xá”
trực chỉ Thiên Quốc mà thôi. Có
một phần an tâm. Chưa an tâm trọn
vẹn vì “chưa được diện
kiến Tôn Nhan Chúa”, đó là
điều ray rứt và khắc khoải nhất
của các linh hồn còn phải sống
xa cách Thiên Chúa. Khi sinh thời, Thánh
Tiến sĩ Giám mục Augustinô đã
cảm nghiệm: “Hồn
con chỉ được nghỉ ngơi khi nào
được an nghỉ trong Chúa”.
Và ngài cũng đã nuối tiếc:
“Con
yêu Chúa quá muộn màng!”.
Các
linh hồn nơi luyện hình, và tất
cả chúng ta, chỉ là những người
vô danh tiểu tốt, thiểu năng và
bất tài, chẳng làm được
việc gì cho ra hồn, thế nên chẳng
hề có “tiếng” mà cũng
chẳng hề có “miếng”. Nhưng
thật là diễm phúc cho chúng ta vì
Thiên Chúa không xét chi đến
“tiếng” hoặc “miếng”, mà
chỉ tính công-trạng-âm-thầm:
“Thiên
Chúa là Đấng KHÔNG VỊ NỂ
AI, nhưng CỨ THEO CÔNG VIỆC MỖI NGƯỜI
MÀ XÉT XỬ” (1
Pr 1:17). Và thị kiến của Thánh Gioan
Tông đồ cũng minh định: “Một
con ngựa trắng, và người cỡi ngựa
mang tên là Trung Thành và Chân
Thật, Người THEO CÔNG LÝ MÀ XÉT
XỬ
và
GIAO
CHIẾN” (Kh
19:11).
Cứ
an tâm và cố gắng sống, đừng
lo không ai biết đến mình. Người
Việt vẫn thường có cách ví
von: “Văn
hay chữ tốt không bằng ngu dốt lắm
tiền”.
Câu này “thâm” lắm, làm
“đau” lắm, nhưng cũng thực tế
lắm. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã
nhắc nhở: “Nếu
người ta ĐƯỢC CẢ THẾ GIỚI
mà phải THIỆT MẤT MẠNG SỐNG thì
nào có lợi gì? Hoặc người
ta sẽ lấy gì mà đổi mạng
sống mình? (Mt
16:26; Mc 8:34; Lc 9:22). Giỏi mà kiêu căng
thì có gì giỏi? Giỏi mà phải
mất Chúa thì ích chi? Thế thì
thà dốt nát mà được Chúa
còn hơn! Chức quyền có ích gì
nếu không nhằm mục đích yêu
thương và phục vụ? Có chức
quyền mà không hành động theo Ý
Chúa, chỉ theo ý mình, làm vinh
danh mình, thì thật là bất hạnh!
Ai
cũng phải QUYẾT TÂM NÊN THÁNH, vì
không nên thánh là phụ tình
Chúa, là lãng phí Giá Máu
Cứu Độ của Đức Kitô. Cứ
quẳng gánh lo đi mà vui sống, vô
tư thì sẽ thoải mái, và an tâm
với điều này: “Nếu
chúng ta đã cùng chết với Đức
Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống
với Người” (Rm
6:8). ĐƯỢC “SỐNG VỚI ĐỨC
KITÔ” LÀ LÀM THÁNH ĐẤY.
Đơn
giản thôi! Nhưng chắc chắn rằng,
dù các thánh, dù các linh hồn
nơi luyện ngục, và cả chúng ta,
không ai không có “dấu đau khổ”
khắc trên trán đâu. Đó là
chữ Phúc!
Chữ
PHÚC của các Kitô giáo là chữ
THẬP (+),
tức là Thập Giá (†).
Một nhánh thẳng đứng là hướng
tới Thiên Chúa, một nhánh ngang là
hướng tới tha nhân. Hai hướng đều
liên kết bằng chữ YÊU – kính
mến và thương mến. Chữ Yêu
rất quan trọng, vì đó là một
trong ba nhân đức đối thần. Vả
lại, nhân đức này thường gọi
là Đức Ái, cần cả đời
này và đời sau, và còn mãi
đời đời. Hai nhân đức đối
thần khác (đức tin và đức
cậy) chỉ có ở đời này,
không còn ở đời sau. Ước gì
mỗi chúng ta khả dĩ nói như Thánh
Phaolô: “Mea
Gloria est Crux Christi – Vinh dự của tôi là
Thập Giá Đức Giêsu Kitô”
(Gl
6:14). Đó mới là chữ PHÚC quan
trọng nhất, và phải gọi là Đại
PHÚC!
TRẦM
THIÊN THU
|