Hôm nay, Thứ Sáu Tuần Thánh có 3 vấn đề cần được suy tư như sau:
Tại sao gọi là Good Friday chứ không phải là Holy Friday?
(1); Tại sao Phêrô lại
nhanh chóng và dễ dàng chối Thày? (2); Tại sao Philatô nhận
biết Chúa Kitô mà lại vẫn giết Người?
(3).
I- Tại sao gọi là Good Friday chứ không phải là Holy
Friday?
Sự kiện đầu tiên đó là chỉ ở thế giới Tiếng Anh mới gọi là Good Friday mà
thôi. Từ ngữ này xuất phát từ cảm nhận của con người về một trong 3 ngày trong
Tuần Thánh, vốn được gọi là Thứ Sáu Tuần Thánh hay Holy Friday ngay từ đầu. Theo
lịch sử thì hơn 3 thế kỷ đầu chỉ có một ngày duy nhất cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua
– Paschal Mystery, đó là Thứ Bảy áp Lễ Phục Sinh. Cho tới sau khi Kitô giáo được
chính thức hóa từ triều đại của Hoàng Đế
Constantine (306-337)vào năm 313 bởi Sắc Chỉ
Milan , Mầu
Nh iệm Vượt Qua mới bắt đầu được chia làm 3 ngày
được gọi là Tam Nhật Vượt Qua – Sacred Paschal Triduum cũng gọi là Tam Nhật
Thánh: Thứ Năm Thánh, Thứ Sáu Thánh và Thứ Bảy Thánh.
Về ý nghĩa ngày nào trong Tam Nhật Vượt Qua cũng là Ngày Thánh, bởi vì là
ngày nào cũng liên quan đến Mầu Nhiệm Vượt Qua là mầu nhiệm mạc khải thần linh
cao cả nhất về một “Thiên Chúa là tình
yêu” (1Gioan 4:8,16), tức về một vị Thiên Chúa Toàn Hảo,
một vị Thiên Chúa – Thánh, Thánh, Thánh! Có thể đó là lý do Thứ Sáu Tuần Thánh
đã được thế giới Anh ngữ gọi một cách đặc biệt là Good Friday, tức là ngày cho
thấy tất cả sự thiện hảo tốt lành của Thiên Chúa. Bởi thế, cũng trong thế giới
Anh ngữ, Thứ Sáu Tuần Thánh này cũng được gọi là Great Friday nữa, thậm chí còn
được gọi là Black Friday, ám chỉ một ngày u ám cho Con Thiên Chúa, một ngày Con
Thiên Chúa tử giá!
II- Tại sao Phêrô lại nhanh chóng và dễ dàng chối
Thày?
Theo bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan luôn được Giáo Hội chọn đọc vào Thứ
Sáu Tuần Thánh, (trong khi các bài Phúc Âm Nhất Lãm của Thánh Ký Mathêu cho
Chu Kỳ Phụng Vụ Năm A, Thánh Marcô cho Năm B và
Thánh Luca cho Năm C), và chỉ có nơi phúc âm của vị thánh ký biệt danh là
“người môn đệ được Chúa Giêsu yêu” này, chúng ta mới
biết được thêm các chi tiến cần liên quan đến lý do tại sao hay nguyên nhân sâu
xa tại sao Tông Đồ Phêrô đã chối Thày mình một cách dễ dàng và mau chóng đến như
thế, trong khi mới trước đó vị tông đồ này đã thề sống chết với Thày (xem Gioan
13:37), và đó là lý do trong khi “tất cả đều bỏ Người mà thoát
thân” (Marco 14:50) thì ngài cùng với Tông Đồ Gioan (cũng là 2 vị
tông đồ cùng đến mồ sau khi nghe tin xác Thày không còn trong mồ) vẫn cố
“theo sát Chúa Giêsu“.
Sự kiện thứ nhất đó là ngài được Tông Đồ Gioan là vị quen biết với Thượng
Tế Anna can thiệp để ngài có thể qua cổng là nơi ngài đang đứng bấy giờ mà vào
bên trong khu vườn của Dinh Thượng Tế. Việc can thiệp ngay lành này của Tông Đồ
Gioan có thể đã gây ngay mối nghi vấn cho phe Thượng Tế, do đó, người phụ nữ
canh cổng bấy giờ mới đặt vấn đề với Tông Đồ Phêrô liền: “Ngươi
không phải là một trong đám môn đệ của tên ấy hay sao?” Bị chất
vấn bất ngờ, như bị một quả đấm ngay vào mặt, vị trưởng Tông Đồ đoàn hăng say
cách đó không lâu đã phản ứng không kịp, để rồi bị choáng váng ngã xuống:
“Không phải tôi đâu” (Gioan 18:17). Tác động chối Thày
của ngài lần thứ nhất này có thể thông cảm được, là vì ngài muốn dấu kín chân
tướng của mình để có thể nhờ đó
“theo sát Thày” cùng với tông đồ Gioan, tức là được vào bên trong.
Quả thế nhưng thương ôi, nhờ được lọt vào bên trong mà ngài tiếp tục chối
thêm hai lần nữa, khi chỉ một mình ngài lạc loài đứng sưởi với thành phần bộ hạ
của vị Thượng Tế, khiến ngài làm sao tránh được trở thành mục tiêu chú ý của đối
phương. “Họ nói với ngài rằng: ‘người không phải là môn đệ của hắn
hay sao?’”, và trong khi một đàng vừa tiếp tục theo dõi Thày ở bên
trong Dinh Thượng Tế một đàng lại vừa lo lắng bị lộ tẩy thì lại bị cả đám nhào
vô đánh hội đồng bằng cách chặn hỏi một cách bất ngờ, một câu hỏi có tính cách
khẳng định như câu hỏi ở ngoài cổng, nhưng lần này cả đám hỏi chứ không phải chỉ
một người nữ hỏi, khiến người môn đệ đã dám cả gan hứa quyết với Thày
“cho dù tất cả có lung lạc đức tin vào Thày, con cũng không bao giờ
lay chuyển niềm tin với Thày” (Mathêu 26:33) vẫn không thể chống
cự lại sức mạnh của đám đông tấn công bấy giờ, nên ngài đã tiếp tục cố gắng che
dấu thân phận: “Không phải là tôi” (Gioan 18:25).
Thế nhưng, cho dù bị đánh hội đồng như thế, và cho dù, theo phản ứng tự
nhiên về cả tâm lý lẫn thể lý, ngài đã cố gắng cong người lại (bảo vệ con tim)
và ôm lấy đầu (bảo vệ cái mặt), một phản ứng sống còn của một người bị tấn công
theo bản năng tự vệ mạng sống, một phản ứng cho thấy người môn đệ cả này vẫn
tiếp tục muốn bảo vệ tấm lòng trung kiên và thân phận môn đệ của mình với Thày
cho đến cùng, mặc dầu bề ngoài có vẻ phũ phàng và mâu thuẫn, cuối cùng ngài vẫn
không thể nào chống cự được với cái búa bổ cuối cùng đập vào đầu của ngài bởi
một kẻ trong thành phần đối phương, một nhát búa ngài không ngờ rằng chân tướng
của ngài đã hoàn toàn bị lộ tẩy bởi thân nhân của người bị ngài chém đứt tai
trong Vườn Cây Dầu cách đó ít lâu (xem Gioan 18:26): “Thế nhưng tao
chẳng thấy mày ở với hắn trong vườn đó hay sao?” (Gioan
18:26).
Vấn đề ở đây là hành động 3 lần chối Thày của Tông Đồ Phêrô hoàn toàn là
do ý ngay lành, vì ngài sợ bị lộ tẩy chân tướng, vì ngài sợ không được lén lút
theo Thày. Ngài đã lấy chính Thày ra để chống đỡ, bằng cách phủ nhận Thày. Nhưng
dầu sao, tự hành động chối Thày của ngài, tức hành động thà để cho Thày bị đánh
đập, bị chối bỏ, còn hơn mình bị đánh đập, bị lộ tẩy, cũng đáng trách. Bởi thế,
ngay sau khi thấy được cặp mắt của Thày như một nhắc nhở đầy cảm thương (xem
Luca 22:61): “Ngài đã đi ra ngoài mà khóc lóc thảm
thiết” (Luca 22:62), và ngài vẫn cảm thấy buốn khi bị Thày có vẻ
ngờ vực tình yêu của ngài đối với Thày qua ba lần chất vấn “con có yêu mến Thày hay chăng?” –
“Vâng thưa Thày, Thày biết rõ mọi sự, Thày bitế rằng con yêu mến
Thày” (Gioan 21:17).
III- Tại sao Philatô nhận biết Chúa Kitô mà lại vẫn
giết Người?
Cái tên “Philatô”lịch sử này quan trọng và nổi tiếng đến độ, ngay cả vị
tiền hô Gioan Tẩy Giả là con người cao trọng nhất được nữ giới sinh ra (xem
Mathêu 11:11), các tông đồ là thành phần chứng nhân tiên khởi của Chúa Kitô, là
nền tảng của Giáo Hội (xem Epheso 2:20), cũng không được nhắc đến tên trong Kinh
Tin Kính của Kitô giáo nói chung và của Giáo Hội Công Giáo nói riêng. Cũng trong
trình thuật của Thánh Ký Gioan được Giáo Hội chọn đọc cho chiều Thứ Sáu Tuần
Thánh, chúng ta mới thấy được rõ ràng những chi tiết quan trọng và cần thiết ở
bên trong Dinh Tổng Trấn Philatô liên quan đến việc truy xét của vị tổng trấn
này với Chúa Giêsu và về Chúa Giêsu, cũng như liên quan đến lý do chính yếu
Người bị lên án tử.
Căn cứ vào trình thuật của Thánh ký Gioan thì Tổng Trấn Philatô chất vấn
Chúa Giêsu 3 lần hay ba điều thứ tự như sau: 1- “Ngươi có phải là Vua Dân Do
Thái hay chăng?” (Gioan 18:33), 2- Chân lý nghĩa là gì?” (Gioan 18:38), 3-
“Ngươi từ đâu tới vậy?” (Gioan 19:9).
1- “Ngươi có phải là Vua Dân Do Thái hay
chăng?” (Gioan 18:33). Chúa Giêsu đã không bao giờ tự xưng mình một cách tự động
hay khi được hỏi đến minh nhiên, công khai và chính thức rằng: “Ta là Đức Kitô” hay “Ta là Vua”. Cho dù Người quả thực là Đức Kitô và là
Vua, như trong 3 năm công khải tỏ mình ra Người vẫn luôn tìm cách chứng thực rằng Người là Đức Kitô và là Vua: là Đức Kitô đối với chung
Dân Do Thái và riêng giáo quyền Do Thái là Hội Đồng Đầu Mục, và là Vua đối với
chung loài người và với riêng thẩm quyền Đế Quốc Rôma bấy giờ là quyền lực đang
đô hộ dân Do Thái và dân Do Thái đang mong được giải thót bởi một Vị Thiên Sai
(Kitô) như đã từng xẩy ra trong Lịch Sử Cứu Độ của họ.
Người đã trả lời câu
chất vấn đầu tiên này của Tổng Trấn Philatô một cách gián tiếp khẳng định như
sau: “Chính ngài nói tôi là vua – It is you who
say I am a king” (Gioan 18:37). Kiểu
trả lời khẳng định một cách gián tiếp này, Chúa Giêsu cũng đã áp dụng với Hội
Đồng Đầu Mục Do Thái khi được hội đồng này cùng nhau đồng thanh hỏi một cách
trực tiếp, dứt khoát và chính thức, như Thánh ký Luca thuật lại rằng:
"Như thế thì ngươi có phải là Con Thiên Chúa chứ gì?"
và câu trả lời của Người là: "Chính các
ngài nói Tôi như thế đó - It is you who say I
am" (Luca 22:69). Còn Thánh ký Mathêu cho biết chỉ có
Thượng Tế Caipha (26:57) là người đã thay hội đồng chất vấn Chúa Giêsu:
"Ta truyền cho ngươi phải thề trước Thiên
Chúa hằng sống mà nói cho chúng ta biết ngươi có phải là Đức Kitô
Con Thiên Chúa hay chăng?" (26:63), và vị có thẩm quyền này cùng
với cả hội đồng của ông bấy giờ đã nhận được câu trả lời khẳng định một cách
gián tiếp như sau: "Chính ngài là người đã nói
thế - It is you who say it..." (26:64). Chỉ có ở trình
thuật của Thánh ký Marco mới có câu trả lời "Tôi
đúng là thế - I am" trực tiếp khẳng định của Chúa Giêsu với
vị thượng tế này thôi (xem 14:62), nghĩa là trực tiếp thừa nhận điều vị thượng
tế hỏi là đúng; nhưng dầu sao, ở câu Phúc Âm của Thánh ký Marcô
này Người vẫn không thẳng thừng và mãnh liệt lập lại một cách rõ ràng những
gì được hỏi "Ngươi có phải là Đức Kitô, Con của Đấng Thánh hay chăng" rằng
"Phải, tôi chính là Đức Kitô, Con của Đấng Thánh đây".
2- "Chân lý
nghĩa là gì?” (Gioan 18:38): Ở trong câu
khẳng định một cách gián tiếp mình là Vua Dân Do Thái, là Đấng đến giải thoát
dân Do Thái, không phải bằng quyền lực chính trị và tình trạng bị đô hộ về thể
lý, mà là bằng quyền lực thần linh và tình trạng nô lệ tội lỗi "ngồi
trong tăm tối và bóng tử thần" (Luca 1:79). Chân lý ở đây chính là
Chúa Kitô, một Chúa Kitô tỏ mình ra là Chân Lý qua các việc Ngài làm, trước hết
và trên hết, ở chỗ Người "đến không phải để làm
theo ý của mình mà là ý của Đấng đã sai" (Gioan 6:38), nhờ
đó, Người mới có thể hoàn thành công cuộc cứu độ trần gian của Người với tư cách
là Đức Kitô Thiên Sai của dân Do Thái.
Sở dĩ Tổng
Trấn Philatô không nhận được câu trả lời của Chúa Giêsu, vì ngay bấy giờ ông đã
thấy Chân Lý, đã đối diện với chính Chân Lý, và cho dù chưa nhận biết Chân Lý là chính Chúa Kitô, qua những việc Người làm, nhất là việc
Người chấp nhận khổ nạn và tử giá theo ý Đấng đã sai «để làm chứng cho chân lý» (Gioan 18 :37)
tức là để chứng tỏ Người là ai (xem Gioan 8:28), ông cũng cảm nhận được Chân Lý
một cách nào đó, qua những gì ông đã khẳng định được treo trên đầu của cây thập
tự giá đóng đanh Chúa Giêsu: "Giêsu Nazarét, Vua Dân Do
Thái" (Gioan 19:19).
3- “Ngươi từ đâu tới?”
(Gioan
19:9). Sở dĩ có câu hỏi thứ ba này là vì Tổng Trấn Philatô sau khi đã cố
gắng điều tra và cảm thấy rằng Chúa Giêsu 2 lần: "Ta chẳng
thấy hắn có tội gì cả - I find no case against thia man /
him" (xem Gioan 18:38;19:6), đã nghe thấy dân Do Thái lên án
tử cho Chúa Giêsu rằng: "Chúng tôi có luật và theo luật thì hắn phải chết vì hắn
xưng mình là Con Thiên Chúa" (Gioan 19:7). Đúng thế, cái tội đáng chết của Chúa
Giêsu ở đây, đối với chung Dân Do Thái và riêng Hội Đồng Đầu Mục Do Thái, đó là
tội "lộng ngôn. Ông chỉ là một con người mà dám xưng mình là Thiên Chúa" (Gioan
10:33). Ở câu hỏi thứ ba này, chính Philatô là một con người
hữu thần, chứ không phải hoàn toàn vô thần, chứng tỏ cũng muốn tìm về Chân
Lý là những gì ông muốn biết, đã đặt vấn đề nhưng
chưa có câu trả lời, một câu trả lời sẽ được giải đáp
thỏa đáng liên quan đến nguồn gốc của một nạn nhân kỳ lạ mà ông
đang đối diện và chất vấn. Đó là lý do ông không trực tiếp hỏi
"Ngươi có phải là Con Thiên Chúa hay chăng?" như câu
hỏi thứ nhất "Ngươi có phải là Vua dân Do Thái hay chăng?", mà là hỏi:
"Ngươi từ đâu đến?", một vấn nạn
cũng đã gây nhức nhối trong dân do Thái về Chúa Giêsu
trước đó (xem Gioan 7:27-28), đến độ họ đã không
chịu được nữa mà hỏi thẳng với Người rằng: "Ông còn để cho
chúng tôi phải nghi nan cho đến bao giờ nữa chứ? Nếu ông thực sự
là Đức Kitô thì hãy nói thẳng ra cho chúng tôi
biết đi" (Gioan
10:24).
Ở đây
cũng thế, Chúa Giêsu vẫn nhất định dứt khoát không chính thức và công khai
xưng mình: "Tôi là Đức Kitô", vì Người biết họ bấy giờ không thể nào
chấp nhận được Chân Lý ấy, đến độ, như Người đã
khẳng định với cả dân Do Thái cũng như với các tông đồ rằng:
"Các người sẽ tìm kiếm Tôi, nhưng nơi
tôi đi quí vị không thể tới được" (Gioan
13:33; 7:33), chẳng những thế, trong chính lúc họ tìm kiếm Người, muốn biết
Người là ai và từ đâu đến thì họ đã được Chúa Kitô cảnh báo cho họ biết trước
rằng: "các người sẽ chết trong tội lỗi của
mình" (Gioan 8:21). Điển hình là Tông Đồ Phêrô, như đã được
phân tích, trong khi cố gắng theo sát Thày bắt đầu cuộc khổ nạn của Người thì
lại chối bỏ Thày 3 lần, nhất là trường hợp Hội Đồng Đầu Mục Do Thái, như đã phân
tích, trong khi muốn biết Người là ai thì lại lên án tử cho Người sau khi nghe
Người chấp nhận những gì họ đang ngờ vực về Người liên quan đến nguồn gốc thần
linh của Người. Vì Mầu Nhiệm Tử Giá thuộc về Mạc Khải Thần Linh, một mạc khải
thần linh lên đến tột đỉnh khi Chúa Kitô tự nguyện hiến mạng sống mình trên Thập
Tự Giá mà chỉ ở nơi Thánh Giá con người mới thấy được "tất cả sự thật"
(Gioan 16:13) về Chúa Kitô và nơi Chúa Kitô, như chính Người đã khẳng định:
"Khi nào các người treo Con Người lên, các người
sẽ biết Tôi là Ai?" (Gioan 8:28), hay mới biết Người
từ đâu đến và sẽ đi đâu, vì chỉ ở nơi Thánh Giá mà mọi người mới được cứu
chuộc: "Khi nào Tôi bị treo lên khỏi đất, Tôi sẽ
kéo mọi người lên cùng Tôi" (Gioan 12:32).
Như thế, biến cố Tử
Giá của Chúa Kitô, trước hết và trên hết, nguyên nhân chính không phải là do
loài người, nhất là thành phần thẩm quyền liên hệ trực tiếp bấy giờ, bao gồm cả
Tổng Trấn Philatô hay Hội Đồng Đầu Mục Do Thái, mà là chính Thiên Chúa, Đấng
muốn lợi dụng những bất toàn của con người, lầm lạc (nơi Hội Đồng Đầu Mục
Do Thái) và hèn yếu (nơi Tổng Trấn Philatô), để hoàn thành Dự Án Cứu Độ của
Ngài nơi Con Ngài là Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế, Đấng đã tuyên bố: "Không ai có thể lấy mạng sống của Tôi được. Tôi tự nguyện
bỏ nó đi. Tôi có quyền bỏ nó đi và có quyền lấy nó lại"
(Gioan 10:18). Vậy, Chúa Kitô Tử Giá là việc chính Người muốn thực hiện để chứng
thực Người quả là Đức Kitô Thiên Sai của Dân Do Thái và từ đó Người cũng là Vua
của loài người, Đấng Cứu Tinh Nhân Trần - Redemptor Hominis (Nhan đề của Thông
Điệp đầu tay của ĐTC GPII ban hành Chúa Nhật I Mùa Chay ngày 4/3/1979), Đấng đã
giải phóng con người khỏi quyền lực tội lỗi và sự chết là những gì thuộc vương
quốc của ma quỉ ngay từ ban đầu nơi nguyên tội! Ôi cao cả thay Mầu
Nhiệm Cứu Chuộc! Ôi, vĩ đại thay Tình Yêu Thiên Chúa!! Ôi diễm phúc thay Loài
Người Tội Lỗi!!!
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, suy tư Thứ Sáu Tuần Thánh
18/4/2014.
|