HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 15 TN C
Đnl 30,10-14 ; Cl 1,15-20 ; Lc
10,25-37
YÊU THƯƠNG THA NHÂN BẰNG SỰ QUAN TÂM
PHỤC VỤ
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Lc 10,25-37
(25) Và này có người thông luật kia
đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử
Người rằng : “Thưa Thầy, tôi phải
làm gì để được sự sống
đời đời làm gia nghiệp ? (26) Người
đáp : “Trong Luật đã viết gì? Ông
đọc thế nào ?” (27) Ông ấy thưa : “Ngươi
hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của
ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức
lực, và hết trí khôn ngươi, và người
thân cận như chính mình” (28) Đức Giê-su
bảo ông ta : “Ông trả lời đúng lắm.
Cứ làm như vậy là sẽ được
sống”. (29) Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ
là mình có lý, nên mới thưa cùng
Đức Giê-su rằng : “Nhưng ai là người
thân cận của tôi ?” (30) Đức Giê-su đáp
: “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống
Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào
tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người
ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ
đi, để mặc người ấy nửa
sống nửa chết. (31) Tình cờ, có
thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường
ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua
bên kia mà đi. (32) Rồi cũng thế, một thầy
lê-vi đi tới chỗ ấy cũng thấy, cũng
tránh qua bên kia mà đi. (33) Nhưng một người
Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ
người ấy, cũng thấy và chạnh lòng
thương. (34) Ông ta lại gần, lấy dầu lấy
rượu đổ lên vết thương cho người
ấy, và băng bó lại, rồi đặt
người ấy trên lưng lừa của mình,
đưa về quán trọ mà săn sóc. (35)
Hôm sau ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và
nói : “Nhờ bác săn sóc cho người
này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở
về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”.(36) Vậy
theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã
tỏ ra là người thân cận với người
đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” (37)
Người thông luật trả lời : “Chính
là kẻ đã thực thi lòng thương
xót đối với người ấy”. Đức
Giê-su bảo ông ta : “Ông hãy đi, và cũng hãy
làm như vậy”.
2. Ý CHÍNH :
Bài Tin mừng hôm nay gồm hai phần :
- Phần một Đức Giê-su đã đồng ý
với một nhà thông luật phải giữ Luật Mô-sê
là “mến Chúa hết lòng và yêu người
thân cận như yêu mình” như điều kiện
để được sống đời đời.
- Phần hai là dụ ngôn về người Sa-ma-ri
nhân hậu, qua đó Người dạy ông phải vượt
qua điều tùy phụ của Luật để thực
hiện điều quan trọng hơn là thực thi bác ái
phục vụ tha nhân.
3. CHÚ THÍCH :
- C 25-28 : + Người thông luật :
Từ này ám chỉ các Kinh sư Do thái,
là những nhà thông thái hiểu biết về
Luật Mô-sê và có nhiệm vụ giải thích
Lề luật cho dân chúng tại các hội đường
Do thái. + Đứng lên hỏi Đức
Giê-su để thử Người : Các người
thông luật thường tự cao, nghĩ mình là
giỏi và không cần phải hỏi ai cả. Ở đây
họ hỏi Đức Giê-su chỉ nhằm thử
thách và gài bẫy để có dịp bắt
bẻ Người mà thôi.+ Làm gì để
được sống đời đời ?
: Người thông luật thuộc phái Pha-ri-sêu,
là phái tin có đời sau và có sự
kẻ chết sống lại, nên ông đã đặt
ra câu hỏi này, trái với các người
phái Sa-đu-xê-ô không tin kẻ chết sống lại
(x. Cv 23,6-8).+ Trong Luật đã viết gì ? : Người
Do thái gọi 5 cuốn sách đầu trong bộ
Thánh kinh Cựu ước là các sách
Luật Mô-sê vì do chính Mô-sê và các đồ
đệ của ông đã viết ra. 5 cuốn sách
đó là: Sáng thế ký, Xuất hành,
Lê-vi, Dân số và Đệ nhị luật. + Ông
đọc thế nào ? : Đức Giê-su trả
lời bằng một câu hỏi, buộc người
đối thoại phải tỏ rõ lập trường
của mình ra trước. + Ngươi hãy
yêu mến Đức Chúa... : Người
thông luật đã đọc kinh Shê-ma là lời
cầu nguyện hằng ngày của dân Do thái.
Kinh này gồm hai câu rút ra từ 2 sách Luật
là Đệ nhị luật (Đnl 6,5) và Lê-vi (Lv
19,18). Điều đó cho thấy Cựu ước
đã chuẩn bị trước cho Tân ước.
+ Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông trả lời
đúng lắm...” : Để được
sống đời đời thì phải sống
yêu thương. Lòng mến Thiên Chúa và yêu người
thân cận luôn phải đi đôi với nhau.
- C 29-30 : + Ông ấy muốn chứng
tỏ là mình có lý : Người
thông luật muốn chứng tỏ mình thực
tâm muốn tìm hiểu. Ông ta mở rộng vấn
đề bằng một câu hỏi khác bên ngoài
bộ Luật và độ khó nhiều hơn so với
câu hỏi trước đã có sẵn đáp
án trong Luật. + “Ai là người thân cận
của tôi ?” : Câu hỏi này mở đường
cho Đức Giê-su bày tỏ quan điểm mang tính
cách mạng của Người, khác với
quan niệm cổ truyền hẹp hòi của các
nhà thông luật của dân Do thái về đối tượng
phải yêu mến. Đó là phải yêu cả kẻ
thù của mình nữa! + Con đường
từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô : Con đường
này dài gần 25 cây số, băng ngang hoang địa
Giu-đa, thời đó có nhiều băng trộm
cướp ẩn núp hoạt động.
- C 31-33 : + Thầy tư tế đi xuống
: Tư tế là người thuộc dòng dõi
A-ha-ron có nhiệm vụ dâng chiên bò sát tế
trong Đền thờ. Vị này đi xuống
Giê-ri-khô vì thành này dành cho gia đình các
tư tế ở. + Thầy Lê-vi : hay trợ
tế, thuộc dòng dõi Ghéc-sôn, là một
trong ba ngành lớn của dòng họ Lê-vi (x. St
46,11). Các thầy trợ tế Lê-vi có nhiệm
vụ đàn hát trong các buổi thờ phượng
tại Đền thờ. + Một người
Sa-ma-ri kia : Sa-ma-ri là một miền đất
nằm ở giữa hai miền là Ga-li-lê phía Bắc
và Giuđê phía Nam của nươc Do thái. Dân miền
này bị người Do thái coi là dân lai
căng và khinh thường họ. Vì trong cuộc
lưu đày vào năm 721, một số người
Do thái ở miền này đã không bị
đi lưu đày. Họ ở lại và dựng
vợ gả chồng lẫn lộn với dân
Ni-ni-vê từ Ba-tư kéo xuống. Dân Sa-ma-ri này
thờ Đức Chúa tại núi Ga-ri-dim, và
không hành hương lên Đền thờ
Giê-ru-sa-lem như người Do thái. Họ cũng
có thái độ thiếu thân thiện như không
cho những người Do thái đi hành hương
Giê-ru-sa-lem vào ở trọ trong làng của họ (x. Lc 9,53).
- C 34-35 : + Lấy dầu lấy rượu
đổ lên vết thương : Người
Sa-ma-ri này đã làm động tác sơ cấp
cứu theo y học sơ đẳng thời bấy
giơ, là dùng dầu để làm giảm
đau và dùng rượu để rửa
sạch vết thương. + Hai quan tiền : Tương
đương 2 ngày công lao động thời
đó (x Mt 20,9).
- C 36-37 : + “Ai đã tỏ ra là
người thân cận với người
đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?”
: Như vậy, chúng ta sẽ trở thành
thân cận của người gặp nạn kia nếu
chúng ta yêu thương và sẵn sàng giúp
đỡ họ. + Hãy làm như vậy :
Đức Giê-su chấp nhận lối xử thế
của người Sa-ma-ri. Người đề
nghị nhà thông luật hãy làm như người
Sa-ma-ri. Tình thương Ki-tô giáo không biên giới,
không cần biết người cần giúp đỡ
có cùng chủng tộc, tôn giáo với mình
hay không.
4. CÂU HỎI : 1) Lòng tin về mầu
nhiệm kẻ chết sống lại của hai phái
tôn giáo thời Đức Giê-su là Pha-ri-sêu
và Sá-đu-xê-ô khác nhau thế nào ? 2) Sách
Luật Mô-sê gồm có mấy cuốn và là những
sách mào ? 3) Hằng ngày người Do
thái ngoan đạo phải cầu nguyện bằng
việc đọc kinh Shê-ma, kinh này được
rút ra từ sách nào ? Lời kinh ấy
nêu ra hai bổn phận nào người Do thái phải làm ?
4) Đức Giê-su dạy người Pha-ri-sêu hãy làm
theo gương của ai trong dụ ngôn người
Sa-ma-ri nhân hậu ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Ông hãy đi, và
cũng làm như vậy” (Lc 10,37).
2. CÂU CHUYỆN :
1) TRÁNH THỜ Ơ TRƯỚC NỖI
ĐAU CỦA THA NHÂN :
Cách đây ít lâu trang mạng Te-le-graph và các trang mạng
khác ở Trung Quốc và trên thế giới đều
đồng lọat phát đi một đọan video clip và
bình luận về tai nạn tại thành phố Phật Sơn
tỉnh Quảng Đông mà nan nhân là một bé gái 2 tuổi tên
Duyệt Duyệt (Yue Yue) đang đi ngòai đường
tại khu chợ ổ gần nhà, và đã bị một
chiếc xe tải nhỏ đụng phải. Đoạn
video clip từ một máy quay bảo vệ an ninh tại hiện
trường cho thấy viên tài xế xe tải sau khi đụng
bé Duyệt Duyệt ngã ra đường, đã chỉ dừng
lai một chút rồi lại tiếp tục chạy khiến
bánh sau chiếc xe cán qua người bé lần thứ 2. Tuy
nhiên, sự việc không dừng lại ở hành động
phi nhân tính của gã tài xế. Chính thái độ thờ ơ
của những người qua đường sau đó mới
khiến người Trung Quốc băn khoăn tự hỏi
không biết tương lai đất nước của họ
sẽ đi về đâu ?
Thực vậy : trong suốt 7 phút từ lúc bé Duyệt
Duyệt gặp nạn, lần lượt đã có tới
18 người đi ngang qua nơi cô bé bị nạn nằm
trên đường, nhưng chẳng một ai quan tâm giúp
đỡ. Người đầu tiên là một thanh niên mặc
áo phông trắng và quần thể thao, đi qua bé gái nằm
sõng soài trên đường, máu tuôn ra trên mặt, nhưng
anh ta đã ngó lơ. Tiếp theo là một người
đi xe đạp nhìn thấy em đã chạy vòng qua tiếp
tục đi. Anh ta đã ngóai lại xem có phải một
người bị nạn đang nằm ở đó hay
không, rồi lại thản nhiên đạp xe đi tiếp.
Khi máu tuôn ra nhiều hơn, một người đi xe
đạp nữa xuất hiện. Người này không chút
quan tâm tới số phận của đứa trẻ. Ba
con người vô cảm vừa nói đã không giúp đỡ
bé Duyệt Duyệt đáng thương, dù chỉ làm một
việc đơn giản là kéo cô bé vào bên vệ đường.
Sự thờ ơ của họ đã dẫn tới sự
kiện một tài xế xe tải khác đi tới, do
đang nói chuyện diện thọai không nhìn thấy bé Duyệt
Duyệt trên đường nên đã cán xe lên người
em. Sau lần bị xe đè này, bé Duyệt Duyệt đã
không còn cử động nữa. Liên tiếp sau đó, rất
nhiều người đi xe đạp và cả một số
người đi xe chở hàng qua khu vực nạn nhân nằm
vẫn không hề quan tâm tới bé Duyệt Duyệt. Cũng
có một người phụ nữ dắt theo đứa
con đi qua, thấy bé Duyệt Duyệt bị nạn lại
rảo chân bước nhanh hơn ngang qua em...
Chỉ tới khi một nữ lao công quét đường
58 tuổi đi tới, thì bé Duyệt Duyệt mới
được cứu giúp. Bà này vội hạ túi đồ
xuống và lôi đứa trẻ sang một bên đường
để tránh cho bé khỏi bị xe cán tiếp. Rồi bà
tri hô lên yêu cầu được trợ giúp. Bấy giờ
mẹ đứa trẻ nghe thấy hớt hải từ
trong nhà chạy ra và vội mang con đi cấp cứu tại
một bệnh viện gần đó. Tuy nhiên, sự can thiệp
đã quá muộn. Các bác sĩ nói rằng bé Duyệt Duyệt
do bị chảy máu nhiều nên bị suy hô hấp và còn bị
chấn thương sọ não nghiêm trọng không được
cấp thời cứu chữa nên khó có cơ hội hồi
phục lại được và cuối cùng đã chết
trong nỗi tiếc thương của cha mẹ và người
thân của em.
Chính thái độ thờ ơ của nhiều
người khi tai nạn xảy ra khiến bé Duyệt Duyệt
đã bị chết thảm vì không được kịp
thời giúp đỡ. Người cuối cùng ra tay cứu
em lại là một người nghèo tiền nhưng giàu
lòng nhân ái. Còn chúng ta sẽ làm gì nếu chứng kiến cảnh
bé gái bị tai nạn nói trên ?
2) TỨ HẢI GIAI HUYNH ĐỆ :
Một đạo sĩ Ấn giáo nọ hỏi các
đệ tử của ông như sau :
- "Làm thế nào để xác định lúc nào
đêm cũ qua đi nhường chỗ cho ngày mới bắt
đầu ?"
Sau vài phút suy nghĩ, một đệ tử giơ tay
xin trả lời :
- "Thưa thầy, đó
là khi ta phân biệt được một con thú từ xa là
con bò hay là con ngựa".
Câu trả lời đã không làm cho nhà đạo sĩ ưng
ý. một đệ tử khác lên tiếng :
- "Là khi từ đàng xa ta phân biệt được
cây xoài hay cây mít".
Vị đạo sĩ lại lắc đầu. Khi các
đệ tử nhao nhao muốn biết đáp án của thầy,
ông mới ôn tồn nói :
- "Đó là khi ta nhìn vào mặt của bất cứ
ai mà nhận ra đó là anh em của ta. Vì nếu ta không
phân biệt được như thế, thì cho dù đêm có
tàn, ngày có bắt đầu, tất cả mọi sự không
có gì thay đổi".
3) CON NGƯỜI CHỈ ĐƯỢC HẠNH
PHÚC KHI BIẾT QUẢNG ĐẠI CHO ĐI :
Có một câu chuyện ngụ ngôn như sau : ở một
thành phố nọ, có một Ông Hoàng sống một cuộc
đời rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người
ta đã làm một bức tượng của ông, đặt
trên một cái bệ cao đặt giữa thành phố và
đặt tên bức tượng là “Ông Hoàng Hạnh Phúc”,
như biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc
cho người dân trong thành.
Một buổi chiều đầu mùa đông, một
con chim én đến đậu dưới chân pho tượng.
Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu
nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt
của Ông Hoàng. Ông đang khóc. Những giọt nước
mắt cứ lăn dài trên đôi má của ông. Chim én ngạc
nhiên hỏi rằng :
- Tại sao ông khóc ? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà !
- Ông hoàng trả lời : Từ khi đứng trên cao
nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá
và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm,
nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này
nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp
ta không ?
- Không được, tôi phải bay đi cho kịp
đàn đang bay về phương Bắc.
- Hãy làm ơn giúp ta một đêm nay thôi.
- Chim én ngập ngừng giây lát rồi nói : Thôi được.
Bây giờ ông muốn tôi làm gì ?
- Trong một túp lều đàng kia có một người
mẹ đang khóc vì đứa con trai bệnh nặng mà bà
lại không tiền mời bác sĩ đến chữa. Bạn
hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem
cho bà ấy.
- Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến
cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo được
cho con trai khỏi bệnh.
- Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm
nữa để mang viên ngọc khác đến cho một
người nghèo gần đó. Rồi hôm sau nữa đến
giúp một người nghèo khác. Cứ thế hết ngày
này sang ngày khác, con chim én lần lượt lấy các đồ
trang sức quý giá của Ông Hoàng đem cho người nghèo.
Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó
đã là giữa mùa đông, trời đã trở lạnh rất
nhiều.
Vào một buổi sáng, người ta thấy
xác con chim én nằm chết cóng dưới chân pho tượng
Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi
người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu
rằng hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của
Ông Hoàng Hạnh Phúc và chim én nhỏ bé kia mang lại.
4) PHẦN THƯỞNG CỦA HÀNH ĐỘNG
BÁC ÁI LÀ NIỀM VUI TÂM HỒN :
Một lần kia, một người Mỹ lái xe đưa
gia đình đi du lịch đến Alaska trong một nhà
xe di động. Bỗng nhiên trục xe bị gãy khiến ông
rơi vào tình huống khó khăn ngay ở nơi đồng
trống. Ông cho vợ con xuống xe và một mình đi bộ
tìm người giúp đỡ, vì lúc bấy giờ chưa có
điện thoại di động như ngày nay.
Sau khi đi được một dặm thì đến
một nông trại, ông vào gặp và trình bày cho chủ nông trại
biết hoàn cảnh khó khăn đang gặp phải. Chủ
nông trại tỏ ra thông cảm, ông ta lái xe công nông đến
kéo chiếc xe và nhà xe di động về nông trại để
sửa chữa hàn lại cái trục bị gãy. Khi công việc
hoàn tất, người du khách nói :
- Tôi phải trả ông bao nhiêu ?
- Ông không phải trả gì cả.
- Nhưng tôi nghĩ tôi phải trả công cho ông theo phép
công bằng.
- Thì ông đã trả công cho tôi rồi đó.
- Ông nói gì tôi không hiểu.
- Ông đã cho tôi cảm giác hạnh phúc khi giúp được
gia đình ông vượt qua hoàn cảnh khó khăn.
Người du khách ngạc nhiên vì đã gặp
được một người tốt bụng có lòng quảng
đại như vậy. Còn chúng ta sẽ làm gì để cảm
thông và sẵn sàng giúp đỡ không công người lâm cảnh
khốn khó ?
3. THẢO LUẬN : Cần làm gì
khi gặp một người bị nạn trên
đường để vừa thi hành được
đức bác ái, lại vừa khôn ngoan phòng tránh bị hiểu
lầm mình đã gây tai nạn ?
4. SUY NIỆM :
1) “Cứ làm như vậy là ông sẽ được
sống đời đời” :
Người thông luật đã hỏi Đức Giê-su
và sau đó ông đã tự tìm ra đáp án trong Luật Mô-sê :
“Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa Thiên
Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn,
hết sức lực, và hết trí khôn ngươi,
và yêu người thân cận như yêu chính mình”.
Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông trả lời đúng
lắm. Cứ làm như vậy là ông sẽ
được sống”.
2) “Ai là người thân cận của tôi?”
:
Người thông luật lại hỏi Đức Giê-su
: “Ai là người thân cận của tôi ?” Thay vì trả lời,
Đức Giê-su đã kể dụ ngôn về người
Sa-ma-ri tốt lành: Một khách bộ hành đi từ Giê-ru-sa-lem
xuống Giê-ri-cô, bị bọn cướp đánh nhừ tử,
trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa
chết bên lề đường. Đang khi hai thầy tư
tế và Lê-vi “tránh qua bên kia mà đi”, thì người Sa-ma-ri
ngoại đạo dừng chân, băng bó vết thương,
đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc và sẵn sàng
trả thêm tốn phí săn sóc nạn nhân cho chủ quán. Qua
đó cho thấy người thân cận của chúng ta là mọi
người đang cần được trợ giúp. Người
thân cận có thể không phải ai khác mà là chính những người
cùng sống chung một nhà, cùng sinh họat trong nhóm, là một
bà hàng xóm, là cô bạn đang ở chung phòng, là người
thân mà chúng ta đang phải chịu đựng thói hư… Tóm
lại là tất cả những ai đã và đang gây ra
đau khổ cho chúng ta… Tất cả đều có thể
được chúng ta yêu thương và sẽ trở nên người
thân của chúng ta. Chỉ cần dừng lại, cúi xuống
phục vụ là họ đang từ một người
xa lạ hay đáng ghét lập tức trở thành thân quen, từ
kẻ thù hóa thành bạn hữu của chúng ta.
3) “Kẻ đã thực thi lòng
thương xót” :
Yêu thương không chỉ
là cho đi một cái gì, nhưng còn là cho đi chính bản
thân, là quên mình để hiến thân phục vụ tha nhân:
Kahil Gibram đã nói chí lý : "Bạn cho đi quá ít khi mới
cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn
mới thực sự cho đi". Càng đi tìm bản thân,
con người càng đánh mất chính mình. Càng muốn
được yên thân, con người càng bị vong thân. Các tín hữu chúng ta chỉ trở thành
con Thiên Chúa khi dám chịu thiệt thòi vì người khác như
mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta đã phát biểu : "Ki-tô hữu là
người trao ban chính thân mình cho tha nhân".
Thánh Au-gút-ti-nô dạy : “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì
thì làm”. Quả thực, khi yêu rồi thì chúng ta sẽ biết
mình phải làm gì trong bất kỳ tình huống nào. Bấy
giờ chúng ta sẽ có sáng kiến để phục vụ
tha nhân là những người nghèo khổ bất hạnh
đang sống gần bên chúng ta cách hữu hiệu. Khi
đã yêu, chúng ta sẽ biết cách làm cho một kẻ xa lạ
trở thành người thân, kẻ thù địch trở nên
bạn hữu theo gương người Sa-ma-ri trong Tin Mừng.
4) “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”
:
Qua dụ ngôn này Đức Giê-su muốn dạy nhà thông
luật và các tín hữu chúng ta bài học: hãy yêu thương
bằng hành động cụ thể. Sở dĩ hai thầy
tư tế và Lê-vi “tránh qua bên kia mà đi” là vì sợ : sợ
bị ô uế theo Luật khi đụng vào xác chết ; Sợ
bị bọn cướp quay lại; sợ bị phiền
hà... Nhiều người trong chúng ta cũng không dám giúp
đỡ tha nhân gặp nạn là do chúng ta cũng sợ bị
tốn nhiều công sức, tiền bạc và thời giờ...
Đang khi người Sa-ma-ri trong dụ ngôn đã vượt
qua những nỗi sợ hãi ấy. Tông đồ Gio-an
đã khuyên các tín hữu : "Anh em đừng yêu thương
nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương
cách chân thật và bằng việc làm" (1 Ga 3,18).
Tình yêu thực sự đòi thể hiện
bằng các hành động cụ thể cá nhân và tập thể
như sau : Thực hành yêu thương hôm nay là phải biết
“nghĩ đến người khác” : Sẵn sàng bị lấm
lem chân tay quần áo, sẵn sàng đối mặt với
những rắc rối có thể xảy ra cho mình. Vặn âm
thanh vừa đủ nghe lúc ban đêm để tôn trọng
láng giềng đang cần được nghỉ ngơi;
Không đổ rác thải ra đường hay vứt xuống
sông lạch để tránh gây ô nhiễm môi trường.
Ngoài ra nên có những hoạt động bác ái tập thể
như chia sẻ quà Tết quà Giáng Sinh cho người nghèo,
mở lớp học tình thương cho trẻ bụi
đời, chăm sóc người già neo đơn… Tránh làm
những gì gây phiền hà cho tha nhân. Chẳng hạn : Khi rước
kiệu Thánh Thể ra đường lộ, cần tránh
gây ách tắc giao thông. Chúng ta đọc kinh ca hát và tưởng
rằng ta đang làm sáng danh Chúa. Nhưng có biết đâu rằng
các tài xế xe hơi, xe máy và bao hành khách đang bức xúc
vì bị ngãng trở trễ giờ hẹn và thêm lòng thù ghét
đạo...
5. LỜI CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho mắt chúng con nhìn
thấy được nỗi đau trong ánh mắt
kẻ khác, đặc biệt là của các người
thân trong gia đình chúng con. Xin cho tai chúng con biết
lắng nghe tiếng khóc của kẻ khác, nhất
là của những người cùng chung huyết
thống với chúng con. Xin cho chúng con biết
thương xót những ai đang lâm cảnh khốn
cùng, cho chúng con đừng bao giờ phớt
lờ bỏ đi vì ngại vất vả cực
nhọc hay sợ bị lừa dối... Xin cho chúng
con biết nói với họ : “Này anh, tôi có thể
giúp gì được cho anh không?” rồi giúp
đỡ phục vụ họ với hết khả
năng.- AMEN.
LM ĐAN VINH - HHTM
|