Bài 32. SỰ CAO CẢ CỦA THÁNH GIUSE
Bản
văn Tin Mừng Mt 1.18-25 đã gây lúng túng rất nhiều
cho các nhà chú giải Kinh Thánh, và xem ra chưa có giải thích
nào toàn mỹ cả. Từ trước đến nay,
phần đa số thường cắt nghĩa là Th’Giuse
không hề hay biết việc Thiên thần truyền tin cho
Đức Trinh Nữ Maria, cho nên ông bị bất ngờ
khi thấy Maria có dấu hiệu bên ngoài đã mang thai, nên
ông định bụng hủy bỏ hôn ước, tuy
vậy vì ông là người công chính, tức là tốt
bụng, nên không muốn tố cáo Maria nếu tố cáo, cô
sẽ bị ném đá, chiếu theo luật phạt tội
ngoại tình, ông chỉ định tâm bỏ bà cách kín
đáo.
Nay,
thử đề cập một cách giải thích khác về
mấy câu Mt 1.18-21.
C.18
nói, Đ.Maria đã đính hôn với T’Giuse, mà theo tục
lệ và pháp luật Do Thái thì đính hôn có giá trị
tương đương với việc thành hôn của
ta bây giờ, tức là hai người đã thành vợ
thành chồng với tất cả những nghĩa vụ
và bó buộc của nó, chỉ có điều là chưa
rước dâu về nhà chồng chung sống, tục
lệ Do Thái cho hoãn việc rước dâu một thời
gian từ vài tháng đến một năm. Trong thời
kỳ ấy, giả sử họ có con với nhau, con
vẫn là con hợp pháp chứ không phải con ngoại hôn.
Và nếu có ai trong hai người ngoại tình thì phải
chịu luật pháp phạt ném đá cho chết. Các
điều trên đây trong Kinh Thánh nói rõ nên chỉ cần
nhắc sơ qua.
Đến c.18c: “Trước khi chung
sống bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”,
thì vấn đề
đặt ra là ông Giuse có biết việc thụ thai
bởi phép Chúa Thánh Thần này không và biết lúc nào,
biết trước hay biết sau khi Thiên thần báo
mộng cho ông (c.20)? Chúng ta
sẽ cố gắng trả lời.
C.19 viết: “Giuse là người công
chính, không muốn tố giác bà... định tâm bỏ bà
cách kín đáo”. Bản dịch Kinh Thánh La Bible de Jerusalem
(tắt: BJ2 ) lần tái bản năm 1998 ở
cước chú b có giải thích thế này: Sự công chính
của ông Giuse nằm ở chỗ ông không muốn nhận
làm cha (và đặt tên của mình cho) một đứa
trẻ mà ông không biết cha nó là ai; và cũng ở chỗ
vì lòng cảm thương (par compassion) đối với
Maria, ông không muốn trao bà cho công lý xét xử nghiêm ngặt,
vì hậu quả sẽ là Maria bị phạt ném đá chết
(Đnl 20.20t). Như thế BJ2 vẫn theo lối
giải thích truyền thống như trên đầu đã
trình bày.
Luật
Do thái chấp nhận ly dị, khi có cớ chính đáng
(Đnl 24.1tt; x. Mt 19.). Nhưng muốn ly dị thành sự
thì phải làm giấy “rẫy vợ” và ra toà, như
thế là công khai hoá rồi, và trước tòa ông Giuse
phải nói vụ việc ra: cái thai này không phải của
ông, là chồng chính thức. Câu báo cáo trước tòa ấy
bản văn Mt 1.19 gọi là “tố
giác công khai” chứ không nên hiểu là “tố
cáo”. Như
vậy - cho dù ông Giuse không có ác ý
tố cáo buộc tội ngoại tình cho Maria - thì
đương nhiên Maria vẫn sẽ bị xử tử
ném đá chiếu theo luật pháp. Làm sao Maria có thể
biện minh bằng cách nói có thiên thần hiện ra và
bảo thụ thai bởi phép Thánh Thần, ai mà tin
được!
May
thay! Th’Giuse dự tính kín đáo rời bỏ Maria
để tránh cho Maria cái nguy tử đó. Quả Thánh
nhân đúng là “một người công chính”, đức
độ, nhân từ và quảng đại ở trong
chuyện này. Đức Maria phải vô cùng biết ơn
Thánh nhân ở chỗ này, vì chúng ta cứ thử nghĩ xem
nếu Thánh Giuse, vì buồn giận mà hành động theo
cảm tính của một người chồng (có cảm
tưởng) bị lừa dối, thì số phận
của Maria sẽ thế nào, và kế hoạch cứu rỗi
của Thiên Chúa sẽ bị đảo lộn tất
cả, (lúc ấy Maria đã mang thai Ngôi Lời Nhập
thể trong dạ rồi) ?
BJ2
viết tiếp quan điểm của mình: trong trường
hợp ngờ vợ ngoại tình song không có bằng chứng,
chồng vẫn có thể xin các tư tế làm cuộc
“phân xử của Chúa” (ordalie), mời xem Ds 5.11tt mô tả.
Cả
hai cách xử công khai nói trên, Th’Giuse đều không muốn
làm.
Ít ra tới đây, ta cũng cảm
động vì Th’Giuse còn có lòng tốt với Đức
Maria và không nỡ tàn xử.
Tuy vậy cách giải thích của
BJ2 không đề cao tâm hồn cao cả của
Th’Giuse cho đủ, vì nghĩ rằng ông chỉ vì
thương Đức Mariạ mà không tố cáo, chứ
ông vẫn còn nghi ngờ có chuyện gì lấn cấn
nơi Maria. Đàng khác, nếu ông không được Maria
cho biết đã thụ thai bởi phép Thánh Thần, tức
là chẳng biết việc của vợ mình, hóa ra Th’Giuse bị
để ra ngoài chầu rìa trong một việc liên quan lớn
tới cuộc sống của hai vợ chồng sau này,
như thế là điều đáng bất bình.
Tốt hơn nên nghĩ rằng
trong chuyện gay cấn này Đức Mariạ đã cư
xử rất khôn ngoan như sau:
Chúng ta nghĩ rằng chính
do Maria nói mà Th’Giuse đã biết việc thụ thai bởi
phép Thánh Thần, trước khi Thiên thần báo
mộng cho ông ở c.20.
Maria cho chồng mình biết
điều ấy trong trường hợp nào?
Hãy lấy trình thuật truyền
tin của Luca 1.26-38. Khi Thiên thần đề nghị Maria
chịu thai (c.31), Người tưởng việc đó sẽ
làm theo thường tình là cần một người nam dự
vào, nên Maria hỏi Thiên thần: “Việc đó xảy ra thế
nào được vì tôi không biết đến việc vợ
chồng?”
Đại đa số các nhà chú giải
ngày nay (x. BJ2, TOB v.v..) cho rằng qua câu nói đó
Maria không có ý bảo: chuyện thụ thai đó không thể
xảy ra được vì tôi đã khấn giữ mình
đồng trinh. Theo sát bản văn, đây Maria chỉ
nói về một tình trạng cụ thể là hiện thời
Người không có quan hệ vợ chồng với người
nam ;
vì thế Người hỏi cách thức phải làm thế
nào để thực hiện lời Thần sứ truyền
bảo.
Vả
lại, Maria không thể khấn như thế, vì trong
luật Do Thái (Ds 30.4tt) dạy về khấn hứa
của nữ giới có chỉ định: phải
được hoặc cha (nếu còn là con gái ở nhà cha
mẹ), hoặc là chồng (khi đã xuất giá) chấp
thuận lời khấn hứa thì mới có giá trị :
“Nếu người
phụ nữ đi lấy chồng, và vẫn còn phải
giữ những lời khấn hứa hay bị ràng
buộc bởi một lời hứa thiếu suy nghĩ
nào người ấy đã thốt ra, và nếu
người chồng nghe biết được mà
chồng vẫn im lặng trong ngày nghe biết
được chuyện ấy, thì các lời khấn
của người phụ nữ ấy có hiệu lực,
và những điều mà
người ấy tự buộc mình làm cũng đều
có hiệu lực. Nhưng nếu trong ngày nghe biết
được, chồng người ấy phản
đối, thì anh ta hủy bỏ lời khấn hứa
còn ràng buộc người vợ, và lời hứa
thiếu suy nghĩ người vợ đã tự buộc
mình phải giữ, Đức Chúa sẽ dung thứ cho
người phụ nữ ấy” (và không buộc giữ
lời khấn nữa) .
Đúng
là trường hợp của Maria, vì như ta đã
biết Maria đã đính hôn với Giuse (coi như đã là
vợ chồng thật trước pháp luật), làm sao
Maria có thể đơn phương chấp nhận
lời đề nghị của Thiên sứ (thụ thai
bởi phép Chúa Thánh Thần), mà không nói cho Giuse là chồng
biết – dù việc chấp nhận đề nghị
đây chính xác không phải là một lời khấn mà
luật buộc người vợ phải nói với
chồng (theo Ds 30.4tt) – dầu vậy. nó có tính chất
phản nghịch cuộc hôn nhân và gây sóng gió cho cuộc
sống vợ chồng của hai người sau này.
Người
Công giáo trước đây – vì quá ước muốn tôn
dương đức đồng trinh của Đ.Maria,
nên họ cố quyết phải bảo vệ và
đề cao với bất cứ giá nào – nên đã
tưởng tượng ra giải đáp này: hai ông bà cùng
đồng tâm nhất trí hẹn nhau làm lời khấn
trinh khiết trọn đời. Đó là một giải thích
ít ra là kỳ quặc... và bất thường. Vì không
hề đếm kể gì đến phong tục và
lịch sử Do Thái thời ấy:
Thật thế, không có một tục
lệ nào và định chế xã hội nào của
người Do Thái ủng hộ cho quyết định
sống đồng trinh như vậy...
Trong quan niệm Do Thái, việc lập gia đình không còn là
chuyện cá nhân, song là một nhiệm vụ tôn giáo và dân
tộc: nhiệm vụ lưu truyền nòi giống
với hy vọng được Đấng Thiên sai Thiên
Chúa hứa trong Kinh Thánh sinh ra trong dòng tộc mình. Trong
viễn tượng ấy, việc son sẻ không sinh con
(cũng như giữ đồng trinh) là một khiếm
khuyết về mặt tôn giáo và đạo đức,
đó là dấu Thiên Chúa loại bỏ người đó ra
khỏi kế hoạch của Người...Nói nặng
hơn, đó là một dấu không được Thiên Chúa
chúc phúc. Một sự tủi hổ. Bà Elidabét vợ ông
Dakarya sau khi được có thai lúc tuổi già, đã vui
mừng thốt lên: “Ấy Chúa… đã cất nỗi hổ
nhục của tôi giữa người đời!” (Lc
1.24-25) .
Vì vậy không thể chấp nhận
việc Maria làm lời khấn giữ mình
đồng trinh, nhưng xét theo
trạng thái tâm hồn Người hằng vâng theo thánh ý
Thiên Chúa, nên có thể nghĩ Người sẵn sàng
bước vào đời hôn nhân bình thường như bao
cô gái khác nếu đó là ý Chúa, tuy trong thâm tâm, do ơn vô nhiễm nguyên tội làm
cho Người có một khao khát sống trọn vẹn
chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa. Nhưng nếu
thánh ý Thiên Chúa muốn cho Người sống bậc hôn
nhân như thường, Maria cũng xin vâng và hoàn toàn phó thác
cho Thiên Chúa. Đó mới thật là trọn vẹn vâng
phục. Nhưng Thiên Chúa đã có kế hoạch của
Người!
Tuy
vậy, đề nghị của Thiên Thần với Maria
là Người sẽ chịu thai, cho dù bởi phép Chúa Thánh
Thần, dầu sao cũng là một việc quan trọng và
gây xáo trộn lớn trong đời sống hôn nhân của
Giuse-Maria, thì không thể nào Maria lại không
đi bàn hỏi với Giuse trước đã (do thân phận người phụ
nữ Do Thái thời cổ rất lệ thuộc đàn
ông như trên đây (sách Ds 30.4tt) đã cho biết).
Đàng khác, nếu ta đọc Kinh
Thánh Cựu Ước, sẽ thấy trong những
việc truyền tin sinh con lạ lùng như thế này,
nếu Thần sứ nói với người chồng thì
không sao, còn nếu nói với người vợ thì thể
nào người vợ cũng phải đi nói lại
với người chồng. Ta hãy đọc một
chuyện điển hình trong chương 13, sách Thủ
Lãnh :
Có
một người đàn ông ở Xo-rơ-a, thuộc chi
tộc Đan, tên là Ma-nô-ác. Vợ ông son sẻ và không sinh
con. Sứ giả của ĐỨC CHÚA hiện ra với
người vợ và nói : "Này, bà là người son
sẻ và không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và sinh một
con trai. Vậy bây giờ phải kiêng cữ (…) vì con
trẻ sẽ là một người hiến dâng cho Thiên Chúa
từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu cứu
Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh."
Bà
đi vào và nói với chồng rằng : "Một
người của Thiên Chúa đã đến gặp tôi ;
hình dáng của người như hình dáng một sứ
giả của Thiên Chúa (…)
Người nói với tôi : 'Này bà sẽ có thai và
sẽ sinh một con trai’ (…)
Ông Ma-nô-ác khẩn
cầu ĐỨC CHÚA: "Thưa Ngài, xin vui lòng cho
người của Thiên Chúa mà Ngài đã sai, đến
với chúng con một lần nữa, và dạy chúng con
phải làm gì." Thiên Chúa nghe tiếng ông Ma-nô-ác, và sứ
giả của ĐỨC CHÚA lại đến gặp
vợ ông, lúc bà đang ở ngoài đồng, khi ông Ma-nô-ác,
chồng bà, không có mặt ở đó. Bà vội vã chạy
đi báo cho chồng, và nói với ông : "Này người
đã gặp tôi hôm trước, lại hiện ra với
tôi nữa." Ông Ma-nô-ác đứng dậy đi theo
vợ, đến gặp người kia và nói : "Ngài có
phải là người đã nói với bà này không ?"
Người ấy đáp: "Chính Ta." Ông Ma-nô-ác nói :
"Khi xảy ra như ngài nói, thì đứa bé phải
giữ luật nào, và nó phải làm gì ?" Sứ giả
của ĐỨC CHÚA nói với ông Ma-nô-ác: "Tất
cả những điều Ta đã nói với bà ấy thì
bà ấy phải giữ… " Bấy giờ ông Ma-nô-ác
bắt một con dê tơ và lấy tế phẩm,
để dâng làm lễ toàn thiêu trên tảng đá kính
ĐỨC CHÚA.
Là Trinh nữ rất khôn ngoan, “Virgo
sapiens”, Maria chắc chắn sẽ phải xử sự
giống như thế, theo luật Do Thái (Ds
30.4tt) về sự khấn
hứa của phụ nữ phải được
chồng chấp thuận. Ở đây dù không phải là
lời khấn hứa, song cũng là một chuyện
tương đương, Maria không thể đơn
phương quyết định một mình
được, không thể đơn phương chấp
nhận thụ thai dù bởi quyền phép Thánh Thần!
Do đó nên nghĩ Maria phải
đi nói với Giuse sự việc để được
Giuse chấp thuận (theo luật
Do Thái Ds 30.4tt trích dẫn trên kia). Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng
Th’Giuse được biết việc thụ thai bởi
Th’Thần do Maria báo cho biết, không cần đợi
lúc Thiên Thần báo mộng sau này (c.20) mới biết.
Vậy, sau
khi được sự đồng tình và chấp thuận
của Giuse, Maria mới nói lời “Xin vâng” với Thiên thần.
Về phía Thiên Chúa, Người
cũng tôn trọng hôn nhân, nên Người không thể đề
nghị một chuyện tày trời và xáo trộn hôn nhân
như thế với một mình Maria. Nên việc Maria đi
bàn hỏi với chồng mình là việc khôn ngoan, chính
đáng và đúng luật pháp. Trong một đại sự
như vậy, phải có giờ cho Maria cân nhắc, suy
nghĩ, bàn hỏi… Không có lý do gì buộc việc Truyền
tin phải xảy ra một lèo liên tục trong mấy phút
đồng hồ.
Phần Giuse, vì ông là người
công chính, là người có lòng tôn kính và sẵn sàng vâng lời
Thiên Chúa, nên khi được Maria bày tỏ việc truyền
tin và đề nghị của Thiên Chúa qua sứ thần
thiên quốc, ông đồng ý cho vợ mình tuân theo lời
đề nghị của Thiên Chúa, Đấng có kế hoạch
nhiệm mầu của Người. Biết được
ý của Thiên Chúa và chương trình của Thiên Chúa như
thế, ông phải nhường
bước cho Người. Giuse cao cả là ở chỗ này.
Cách giải thích mới này khác với
giải thích thường quen trước đây nghĩ rằng
Maria đơn phương chấp thuận lời truyền
tin của Thiên thần, không hề bàn hỏi, và cũng
không hé răng nói chút nào cho Giuse biết, và cứ để
mặc phú thác cho Thiên Chúa soi sáng dạy dỗ cho ông thế
nào không biết. Và chỉ khi Maria đi thăm và ở lại
giúp đỡ bà Elidabét 3 tháng trở về, Giuse mới thấy
những dấu hiệu vợ mình có thai, ông phẫn chí buồn
rầu tính chuyện bỏ đi, cách âm thầm kín đáo
vì không nỡ tố cáo Maria. Sau đó, Giuse được
thiên thần báo mộng ở Mt 1.18-20 mới hay biết
đấy là chuyện Thiên Chúa can thiệp.
Hơn nữa, nếu chấp nhận
giả thuyết Maria không nói với Giuse về việc Thiên
thần truyền tin cho cô thụ thai Con Thiên Chúa, thì sẽ
càng rất khó giải quyết vụ rút lui âm thầm của
Giuse. Theo giả thuyết này, Giuse chỉ thấy vợ
mình có những dấu hiệu thụ thai không do ông, và do một
người khác, mà ông không biết là ai, và vì ông thương
hại Maria mà không tố cáo trước tòa án vụ có thai
đáng ngờ, vậy thì hóa ra ông đồng lõa hoặc
ít ra bao che dung túng cho một sự
vi phạm luật, nếu thế làm sao ông có thể
được gọi là “người công chính”? Th.Giêrônimô
cũng đưa ra thắc mắc : “Ông Giuse giấu tội
của vợ mình, thì sao có thể được coi là
người công chính?”
Trái lại, cách trình bày mới mẻ
đề nghị trên đây còn cho thấy sự cao cả
của Giuse là ở đâu. Vì lòng tôn thờ và yêu mến
Thiên Chúa, ông đã vượt thắng ý riêng, quyền
lợi riêng tư. Ông bằng lòng hi sinh tất cả
những dự tính về tương lai mà một
người chồng bình thường có quyền mong
muốn, để Thiên Chúa sử dụng Maria vợ mình
theo kế hoạch của Người. Và từ đó, ông
tôn trọng Maria như là một con người
được đặc
tuyển bởi Thiên Chúa, trở nên một cách nào như
là Hòm Bia của Thiên Chúa, bất khả xâm phạm!
Cho nên suốt đời Th’Giuse coi mình như là
người tôi tớ, và không còn tơ hào nghĩ
tưởng đến việc vợ chồng với
Đức Maria – tuy chính thức trước pháp luật và
cả trước mặt Thiên Chúa ông vẫn là
người chồng yêu thương vợ và “Con” mình.
Th’Giuse cao
cả là ở chỗ đó, đích thực là “một
người công chính” là ở chỗ đó, và Kinh Thánh đã không lầm khi
tặng cho Người tước hiệu cao quí đó!
Trở lại với Giuse, phải
nghĩ sao về chuyện rút lui êm thấm (“bỏ bà cách
kín đáo”) của trình thuật Matthêu? Cách giải thích mới
mẻ trên đây, sẽ cắt nghĩa dễ dàng:
Nhờ Maria nói cho ông biết câu
truyện Truyền tin, ông biết vợ mình nay là người
của Thiên Chúa, được Người chọn và dành
riêng ra cho một sứ mệnh cao cả, và cái thai kia là do
bởi phép Chúa Thánh Thần. Vậy vốn là người
công chính, có lòng trọng kính và vâng phục Thiên Chúa, ông tự
thấy mình không thể (và không xứng đáng) làm chồng một người
phụ nữ kỳ diệu, cao cả như thế, và làm
cha một đứa trẻ mà gốc gác của nó lại
siêu phàm như vậy, cho nên ông rút lui, tức là rời
bỏ Maria. Ông sẽ tạo ra một cái cớ nào đó hợp
pháp (x. Mt 19.3) để có thể gỡ bỏ hôn nhân và rút
lui âm thầm. Như vậy, Giuse
rút lui vì tôn kính chứ không phải vì thất chí !
Kết quả thế nào ?
Như Abraham xưa, sau khi Thiên Chúa
thử thách thấy ông bằng lòng tế sát con một yêu
quí và là hi vọng nối dõi tông đường, thì Người
đã trả lại đứa con nguyên vẹn cho ông và còn
thưởng cho ông một dòng dõi đông như sao trời
cát biển (St 22.12,16-18), thì nay, thấy lòng kính phục của
Giuse chấp nhận hy sinh tất cả, Thiên Chúa trả lại
tất cả cho ông, và trả lại một cách siêu vời:
Người sai sứ thần
đến nói cho ông biết : chính Thiên Chúa muốn ông sẽ
cứ làm chồng của Maria, và làm cha (nghĩa phụ) của
Thánh trẻ, Con Một Thiên Chúa :
- Làm cha của Thánh trẻ bằng
hành vi đặt tên để cho Thánh trẻ thuộc vào
dòng họ Đavít của ông (Mt 1.21), để danh chính ngôn
thuận trước mặt dân Do Thái Ngài là Đấng
Thiên Sai. Cùng với Maria, Thánh trẻ này sẽ là đứa
con chung, nhưng “không sinh bởi xác thịt, hay ý của nam
nhân...song bởi Thiên Chúa” (Ga 1.13), đứa con của
ơn huệ Thiên Chúa. Chính vì vậy, qua những trình thuật
của sách Phúc Âm, ta thấy Giuse yêu mến và tôn kính Thánh trẻ
Giêsu vô cùng: chỉ cần nhớ đến cuộc tị
nạn đang giữa đêm khuya sang đất Ai cập; rồi khi bạo chúa Hêrôđê chết và nghe con của hắn lên làm vua
thay cha, ông sợ cho sự an toàn của thánh trẻ nên
đã đến lập cư tại Galilê miền Bắc
(Mt 2.13-15, 19-23); và nhớ đến nỗi đau đớn
sầu khổ của ông khi lạc mất Thánh trẻ: “Này
cha con và mẹ phải đau khổ tìm con” (Lc 2.48)...
- Và Giuse vẫn làm chồng chứ
không mất đi người vợ mà ông yêu thương
vô cùng .
Ông nghĩ mình phải rút lui, không có vai trò gì trong chuyện
cao siêu kỳ diệu này, thì nay, Thiên Chúa vạch ra cho ông biết
ông có vai trò đối với
Giêsu và Maria, vai trò quan trọng trong công trình cứu độ:
vai trò nuôi nấng, gìn giữ, bảo vệ hai nhân vật
chủ chốt trong công cuộc cứu chuộc nhân loại. Và ông đã vâng lời. Kinh Thánh
nói: Sau khi tỉnh giấc, ông đã làm theo như lời
Thiên thần dạy (c.24): rước vợ về nhà chung
sống.
Nhưng vì nay ông ý thức
được rằng cung lòng Maria đã trở thành
nơi “Con Đấng Tối Cao”, “Đấng Thánh”, “Con
Thiên Chúa” ngự (theo như Maria kể lại lời Thần
sứ, Lc 1.32,35), Giuse sẽ vô cùng tôn trọng Maria: “giữa ông và bà không có việc tri
giao vợ chồng, cả đến lúc bà sinh con...”
song không vì thế, hay chính vì thế mà Giuse càng yêu
thương và kính nể người vợ tuyệt vời
của mình vô ngần, ông sẽ tận tụy suốt
đời che chở, bao bọc, nuôi nấng, nâng đỡ
(x. Ep. 5.28-29).
Quả thật Giuse là con người
hạnh phúc !
Thiên
Chúa làm cái gì cũng hoàn hảo tuyệt vời!
Lm. Phêrô Hoàng-Minh-Tuấn. CSsR
{{{{{
Nên nhớ: bản
văn Tin Mừng là một trình thuật rút gọn, toát
lược để dạy đạo cho tân tòng dễ nhớ,
không phải một bản văn tự thuật hay phóng sự.
|