HỌC HỎI PHÚC ÂM CHÚA NHẬT MÙNG HAI TẾT KÍNH NHỚ TỔ TIÊN Mt 15,1-6
1.
Trong bài Tin Mừng
này, phái đoàn nào đến gặp Đức Giêsu? Họ từ
đâu đến và gặp Ngài ở đâu?
Tại sao họ đến
gặp Ngài? Đọc Mt 14,13-14.21.
Trong bài Tin Mừng
này, dường như có cả một phái đoàn gồm
những người Pharisêu và các kinh sư từ Giêrusalem
đến vùng Galilê là nơi Đức Giêsu đang thi hành
sứ vụ. Họ từ xa đến hẳn phải có
mục đích. Trước đây ta đã từng thấy
một phái đoàn tương tự từ Giêrusalem đến
để điều tra ông Gioan Tẩy giả (Ga 1,19.22).
Còn phái đoàn trong bài Tin Mừng này có thể được
giới lãnh đạo Do-thái giáo gửi đến để
điều tra hoạt động của Đức Giêsu,
vì thấy Ngài khá thành công ở vùng Galilê, nhất là sau phép lạ
bánh hóa nhiều (Mt 14,13-14.21).
2.
Trong Tin Mừng
Mát thêu, các kinh sư
và những người Pharisêu có phải là những người
có cảm tình với
Đức Giêsu không?
Đọc Mt 9,3.11.14.34; 12,2.10.14.24.38.
Đặc biệt
trong chương 9 và 12 của Tin Mừng Mátthêu, chúng ta thấy
các kinh sư và những người Pharisêu thường có
ác cảm và chống đối Đức Giêsu. Họ tố
cáo Ngài về chuyện phạm thượng khi tha tội
(Mt 9,3), ăn với người thu thuế (Mt 9,11), các môn
đệ không ăn chay (Mt 9,14), các môn đệ bứt lúa
trong ngày sa-bát (Mt 12,2), chính Đức Giêsu chữa bệnh
ngày sa-bát (Mt 12,10). Họ thách thức Ngài làm phép lạ (Mt
12,38). Họ cho rằng Ngài trừ quỷ nhờ thông đồng
với quỷ vương (Mt 9,34; 12,24) và họ đã âm mưu
giết Ngài (Mt 12,14).
3.
“Truyền thống của tiền nhân” ở Mt 15,2 nghĩa
là gì?
Các môn đệ
bị tố cáo vi phạm “truyền thống của tiền
nhân” khi không rửa tay trước khi dùng bữa (Mt 15,2).
Truyền thống của tiền nhân ở đây để
chỉ tập hợp những luật truyền khẩu
được cho là do Môse nói ra, và lưu truyền từ
đời nọ sang đời kia. Chúng có thể được
thêm thắt nên dần dần chúng càng lúc càng nhiều lên. Những
luật truyền khẩu này nhằm giải thích hay bổ
sung cho Luật đã được viết trong Cựu Ước,
nên chúng rất nghiêm ngặt, chi li và khó giữ. Thánh Phaolô từng
hãnh diện vì đã giữ kỹ “truyền thống của
cha ông” (Gl 1,14). Thí dụ Cựu Ước không đòi phải
rửa tay trước khi dùng bữa, nhưng “truyền thống
của tiền nhân” lại đòi. Cựu Ước không cấm
bứt bông lúa để ăn trong ngày sabát, nhưng “truyền
thống của tiền nhân” lại cấm.
4.
Trong Mười Điều răn, điều răn
“Thờ cha kính mẹ” hay “thảo kính cha mẹ” nghĩa là
gì? Thảo kính cha mẹ đem lại điều gì cho con
cái? Đọc Xuất
hành 20,12; Đệ nhị luật 5,16.
Thảo kính cha
mẹ là một trong mười điều răn mà ông
Môsê đã nhận từ trên núi Xinai. Đây không phải là một
điều cấm làm như những giới răn khác, nhưng
là điều Thiên Chúa truyền phải làm như một bổn
phận. Sách Xuất hành không nói lý do tại sao phải thảo
kính cha mẹ, chỉ nói kết quả của việc thảo
kính này, đó là “được sống lâu trên đất
Thiên Chúa sẽ ban” (Xh 20,12). Sách Đệ nhị luật
còn thêm “để được sống lâu và để
được hạnh phúc “trên đất Chúa ban (5,16). Thảo
kính cha mẹ cụ thể là vâng lời cha mẹ. Sách
Đệ nhị luật 21,18-20 nói đến “đứa
con ngỗ nghịch và bất trị, không nghe lời cha mẹ
sửa dạy”, “cứ rượu chè phóng đãng.”
Thảo kính cha
mẹ không chỉ là vâng phục mà còn là kính trọng, yêu mến,
được thể hiện qua việc thăm hỏi
khi mạnh khỏe, chăm sóc khi đau yếu, nuôi dưỡng
khi già nua.
5.
Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử
tử. Điều này có trong Cựu Ước không? Đọc
Xuất hành 21,17; Lêvi 20,9; Đệ nhị luật 21,18-21;
Châm ngôn 20,20.
Điều làm
chúng ta bất ngờ đó là hình phạt nặng nề
dành cho những ai không thảo kính cha mẹ, nghĩa là không
giữ điều răn Chúa. Đứa con ngỗ nghịch
bị cha mẹ bắt, đem ra cửa thành cho các kỳ mục
xử. “Mọi người trong thành sẽ ném đá cho nó
chết.” (Đệ nhị luật 21,19-21). Tội nguyền
rủa, chế giễu cha mẹ bị coi là tội nặng,
phải bị xử tử (Xuất hành 21,17; Lêvi 20,9; x.
Châm ngôn 20,20; 30,17).
1.
Câu Mt 15,5-6a thật sự nghĩa là gì?
Qua câu Mt 15,5-6a
Đức Giêsu tố giác một truyền thống xấu
của tiền nhân mà các người Pharisêu và kinh sư
thích dựa vào. Đó là nếu người con thực sự
đã dâng cho Chúa, hay mới chỉ có ý dâng, những gì lẽ
ra mình phải dành để phụng dưỡng cha mẹ,
thì người con ấy được miễn khỏi phải
phụng dưỡng cha mẹ nữa. Vì những gì người
ấy đã bỏ (hay định bỏ) vào thùng tiền ở
Đền thờ, trở thành “lễ phẩm dâng cho Chúa”
(dôron, korban) rồi. Cha mẹ không còn quyền được
hưởng những của cải ấy nữa. Đối
với Đức Giêsu, đây là một truyền thống
sai lạc do con người tạo ra, vì đã dám gạt bỏ
điều răn của Thiên Chúa là thảo kính cha mẹ
(xem thêm Mc 7,9-13).
2.
Tìm trong bài Tin Mừng này hai câu tố cáo có nội dung giống
nhau của Đức Giêsu đối với các người
Pharisêu và kinh sư? Đọc Mt 15,3.6. Ngài tố cáo họ
về thái độ nào? Trước đó họ đã tố
cáo Ngài về chuyện gì?
Hai lời tố
cáo có nội dung giống nhau của Đức Giêsu nằm
ở Mt 15,3.6. Ngài tố cáo họ đã đặt những
truyền thống truyền khẩu của họ lên trên
điều răn rõ ràng của Thiên Chúa được viết
trong Sách Thánh. Trước đó họ đã tố cáo các
môn đệ Đức Giêsu vi phạm truyền thống
này khi không rửa tay trước khi ăn (Mt 15,2).
3.
Theo bạn, tôn kính cha mẹ có phải là điều
răn quan trọng nhất không? Bạn hiểu thế nào
về Mt 4,18.22; 10,37. Trong truyền thống dân tộc, tương
quan thảo hiếu đối với cha mẹ thường
được đặt dưới những tương
quan nào?
Điều
răn thảo kính cha mẹ là quan trọng, nhưng không phải
là quan trọng nhất. Dù cha mẹ ông bà là những bậc
đáng kính, nhưng họ cũng chỉ là những thụ
tạo, ở dưới Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa đòi hỏi
rõ ràng, thì phải đặt những đòi hỏi đó lên
trên điều răn này. Các môn đệ đã bỏ gia
đình để theo Đức Giêsu (Mt 4,18.22). Ngài đòi họ đặt
Ngài lên trên cha mẹ hay con cái (Mt 10,37). Trong truyền thống
dân tộc, đạo hiếu cũng phải đặt ở
dưới việc trung với vua. Có một trật tự
phải theo: vua, rồi đến thầy, rồi đến
cha (quân, sư, phụ). Ngoài ra còn có một trật tự
khác nữa, đó là Thượng Phụ (Thiên Chúa), Trung Phụ
(Vua) và Hạ Phụ (cha).
CÂU HỎI SUY NIỆM:
Bạn nghĩ gì về lòng hiếu thảo của Đức
Giêsu với cha mẹ? Khi Cậu Giêsu ở lại Đền
thờ mà không báo cho cha mẹ (Luca 2,41-51); khi Ngài lên đường
đi làm sứ mạng Chúa Cha sai và để mẹ Maria ở
lại nhà; hay khi Ngài trao người môn đệ Ngài yêu
cho Đức Mẹ trước khi lìa đời (Ga
19,25-27).
|