HỌC HỎI PHÚC ÂM LỄ GIÁNG SINH ABC Lc 2,1-20 ( Lm Cao Sieu, SJ)
1.
Hoàng đế Au-gút-tô là ai?
Tại sao ông lại truyền kiểm tra dân số trong Đế quốc Rôma?
Vào năm 63 trước công
nguyên, tướng Rôma là Pompey đánh chiếm Giêrusalem. Từ
đó đất Israel ở dưới quyền đô hộ
của Rôma. Octavian là một hoàng đế của đế
quốc Rôma. Năm 27 trước công nguyên, Octavian được
Nghị Viện Rôma (Senatus) ban cho tước hiệu Au-gút-tô,
nên ông được gọi là hoàng đế Au-gút-tô. Triều
đại của ông kéo dài đến tận năm 14 sau công
nguyên. Đây là một thời gian dài đế quốc
được sống trong hòa bình, được gọi
là Pax Romana. Au-gút-tô tự xưng mình là con của một vị
thần (divi filius), và ông cũng được coi như một
vị “thần,” như một “đấng cứu độ.”
Au-gút-tô truyền kiểm tra
dân số có thể vì mục tiêu thu thuế, nhưng cũng
có thể vì ông muốn nắm bắt số người
trung thành với ông trong đế quốc Rôma. Sử gia
Josephus có nhắc đến một cuộc kiểm tra về
thuế do ông Qui-ri-ni-ô, tổng trấn xứ Xy-ri-a, vào
năm 6 hay 7 sau công nguyên. Còn cuộc kiểm tra được
nói đến trong Tin Mừng Luca lại xảy ra vào
năm 6 hay 7 trước công nguyên. Vậy có thể
đây là một cuộc kiểm tra khác.
2.
Đọc Lc 2,3-4. Tại sao Giuse phải đi từ Nadarét lên
Bêlem là thành của vua Đa-vít để đăng ký? Đọc Lc 2,5, bạn
có thấy gì lạ không?
Cuộc kiểm tra này đòi
cả gia đình, kể cả phụ nữ, phải trở
về quê quán để đăng ký (x. Ét-ra 2). Vì Giuse thuộc
gia tộc và dòng dõi vua Đa-vít (Lc 1,27) nên ông phải cùng với
Maria đi từ Nadarét thuộc vùng Galilê để đến
Bê-lem thuộc vùng Giu-đa. Bê-lem là quê quán của Đa-vít,
là nơi anh Đa-vít chăn chiên được ông Samuel xức
dầu phong vương (1 Sm 16,1-13). Cả hai thánh sử Mát-thêu
và Luca đều coi Bê-lem là nơi Đức Giêsu được
hạ sinh (Mt 2,5.6.8; Lc 2,4). Nên lưu ý đến lối viết
đặc biệt của thánh Luca: Giuse đi đăng ký
với “Maria, người đã được đính hôn với
ông, đang mang thai” (Lc 2,5). Rõ ràng thánh sử Luca muốn nhấn
mạnh đến việc thụ thai đồng trinh của
Đức Maria. Dù bây giờ Maria đã về chung sống
với Giuse, đã thành hôn với Giuse, nhưng Luca vẫn
muốn nhắc đến việc Maria đã mang thai từ
khi mới đính hôn với Giuse (Lc 1,27).
3.
Đọc Lc 2,6-7. Bạn thấy hoàn cảnh Hài Nhi Giêsu mới sinh ra có nét
nào giống
chúng ta không? Có nét nào
thua kém chúng ta không?
Sau khi ở với bà Êlisabét
khoảng ba tháng, Maria đã trở về nhà mình với
đứa con ba tháng tuổi trong bụng (Lc 1,56). Không rõ bao
lâu sau thì Giuse đưa Maria về chung sống, rồi cùng
nhau đi Bê-lem để lo thủ tục kiểm tra. Chỉ
biết Maria đã sinh con trong thời gian ở Bê-lem. Giêsu
là con trai đầu lòng của đôi vợ chồng. Người
Con này là Đức Chúa, là Đấng Kitô, là Đấng Cứu
độ (Lc 2,11; 1,43), là Con Đấng Tối Cao (Lc 1,32),
là Con Thiên Chúa (Lc 1,35). Người Con này là một vị Vua
thuộc dòng tộc Đa-vít, sẽ trị vì vương
quốc Israel và ngồi trên ngai vàng mãi mãi (Lc 1,32-33).
Hiển nhiên đây là một
Đấng hết sức cao cả (Lc 1,32), Đấng Thánh
(Lc 1,35). Nhưng đấng này có nhiều nét giống chúng
ta: được cưu mang như ta, được sinh
ra từ một phụ nữ, được mẹ quấn
tã cho khỏi lạnh. Đấng này còn bị đặt nằm
trong máng ăn của các con vật, vì không có chỗ trong phòng
dành cho khách (Lc 2,7). Trong một căn nhà ở vùng Giuđê
thời đó, thường có “phòng dành cho khách” (katalyma;
x. Lc 22,11; Mc 14,14. Còn “nhà trọ”
hay”quán trọ” thì Luca 10,34 dùng từ pandokheion). Có thể
vì không còn chỗ trong phòng khách, nên Thánh Gia phải ở nơi
chuồng bò, đây cũng là một phần của căn
nhà. Tại đó Đức Giêsu được sinh ra và
được đặt nằm trong máng ăn của súc
vật.
4.
Đọc Lc 2,8-12. Một vị thiên sứ đã đến báo tin mừng lớn cho các mục đồng.
Vị ấy đã báo tin gì? Tại sao lại báo cho các mục
đồng? Đâu là dấu hiệu vị thiên sứ ấy
giúp cho các mục đồng nhận ra Đấng mới
sinh ra?
Trước hết có một
vị thiên sứ hiện ra với các mục đồng
giữa đêm trường, khi họ canh giữ đàn vật.
Vị này báo tin mừng về sự sinh ra của Đấng
Cứu Độ, Đấng Kitô và là Đức Chúa (Lc
2,11). Đấng cao trọng ấy mới sinh tại Bê-lem,
thành của vua Đa-vít. Vị này còn cho họ một dấu
hiệu quá đỗi tầm thường để nhận
ra Đấng ấy: một trẻ sơ sinh, được
bọc tã, nằm trong máng cỏ (Lc 2,12). Các mục đồng
đã tin lời vị thiên sứ bằng một niềm
tin đơn sơ (Lc 2,15-16). Dù bị coi là thấp kém trong
xã hội, nhưng họ lại là những người
đầu tiên được Thiên Chúa chọn để
được nghe Tin Mừng và được thấy mặt
Đấng Cứu thế.
5.
Đọc Lc
2,13-14. Bạn thích lối dịch nào hơn: “Bình an dưới
thế cho người thiện tâm” hay “Bình an dưới thế
cho những người Chúa thương”?
Cùng với vị thiên sứ
này, đột nhiên xuất hiện cả một đạo
binh thiên sứ vang lời ca ngợi Thiên Chúa. Lời ca của
họ là hai câu đầu của Kinh Vinh Danh đọc
trong Thánh Lễ. “Vinh quang cho Thiên Chúa trên trời” đối
lại với “bình an cho con người dưới đất.”
Con người (số nhiều) ở đây là ai? Đó là
những người mà Thiên Chúa thương mến và ban ơn
(eudokia). Đó cũng là những người đã đón
nhận ơn Chúa, sống đẹp lòng Thiên Chúa với
thiện tâm. Hai lối dịch đều chấp
nhận được.
6.
Đọc Lc
2,15-20. Những người chăn chiên đã làm gì sau khi
các thiên sứ về trời?
Sau khi các thiên sứ về trời,
những người chăn chiên hối hả sang Bê-lem, gặp
thấy dấu chỉ như đã được báo, rồi
họ kể lại cho mọi người ở đó những
lời vị thiên sứ đã nói với họ về Hài
Nhi (Lc 2,17). Sau đó họ ra về, vui sướng ca tụng
Thiên Chúa vì những kinh nghiệm độc đáo họ mới
trải qua (Lc 2,20).
7.
Đọc Lc
2,18-19. Đâu là phản ứng của những người
nghe câu chuyện của các người chăn chiên? Đâu là
thái độ của
Maria?
Những ai nghe đều
kinh ngạc trước câu chuyện lạ lùng của các
người chăn chiên: chuyện một vị thiên sứ
báo tin vui và cho dấu hiệu, rồi chuyện cả
đoàn thiên sứ hợp xướng… Còn Maria không chỉ
kinh ngạc, mà còn ghi nhớ mọi chuyện đó và nghiền
ngẫm chúng trong trái tim mình. Đây là thái độ cung kính
của người đứng trước mầu nhiệm
(x. Lc 2,51).
GỢI Ý SUY NIỆM: Chiêm ngắm sự nghèo khó
và khiêm tốn của Con Thiên Chúa
làm người qua bàiTin Mừng này. Bạn có cảm được
sự lúng túng
và bối
rối của đôi vợ chồng trẻ Maria và Giuse
khi phải
sinh con trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn?
Bạn có cảm được niềm vui của những
người chăn chiên không?
|