Ông Minh kể chuyện đời mình:
“Trong khi đất nước đang chuẩn bị chia đôi vào năm 1954 thì tôi đang du học ở Pháp. Tôi vội viết thư về Hà Nội cho đại gia đình để thuyết phục cha mẹ tôi hãy di cư vào miền Nam, rồi tôi sẽ về nước và chăm sóc cho ông bà. Tuy nhiên các anh chị tôi vì ở bên cạnh cha mẹ nên ngày đêm, họ khuyên cha mẹ tôi đừng vào Nam. Họ lý luận rằng cuộc sống sẽ khó khăn lắm vì mọi sự sẽ phải bắt đầu từ con số không. Vả lại, trong thâm tâm họ lúc ấy, miền Nam là một vùng xa xôi, lạ phong thổ, dân tình chắc không giống người miền Bắc.
Cuối cùng, cha mẹ và các anh chị tôi chọn ở lại miền Bắc, chỉ có một mình tôi sau khi du học về nước thì chọn ở miền Nam.
Trong những ngày tháng bơ vơ, xa gia đình, tôi nhớ nhất là mẹ của tôi. Bà là người mẹ dịu hiền, suốt đời hy sinh cho chồng con. Tôi xa mẹ quá sớm nên lòng lúc nào cũng nhớ thương mẹ. Tôi nhớ nhất là tiếng hát ru con ài ơi, êm ái nghe buồn não nuột của mẹ. Tôi nhớ những bữa cơm gia đình đạm bạc có rau mồng tơi và cà pháo mà mẹ tôi sửa soạn cho gia đình. Tôi nhớ mái tóc dài đen huyền và thơm mùi chùm kết của mẹ. Tôi nhớ hàm răng đen nhánh hạt huyền của mẹ và nụ cười đôn hậu của mẹ tôi.
Đến hơn 30 năm sau, tức là vào tháng 4 năm 1975, gia đình riêng của tôi di tản sang Mỹ nên tôi không còn dịp để gặp gỡ gia đình và mẹ tôi.
Rồi khi cha mẹ tôi qua đời, tôi không được về thọ tang. Mãi đến lúc gần đây, sau năm 2000, tôi và vợ về thăm quê cũ ở miền Bắc. Chúng tôi đến thăm nhà thờ, nơi gia đình tôi thờ phượng Chúa. Tôi xin cha xứ cho tôi được tìm lại những hồ sơ rửa tội của đại gia đình tôi. Cha đồng ý nhưng tôi chỉ tìm được những giấy tờ rửa tội của ba tôi và các anh chị em, mà không có hồ sơ của mẹ tôi. Lòng tôi buồn sầu vô cùng khi nghĩ đến việc mẹ tôi chết mà không được rửa tội. Nếu qủa thật như thế thì thật là bất hạnh cho bà.
Tôi đi theo những thân nhân ở ngoài Bắc để thăm mộ cha mẹ và các anh chị. Vận mệnh thăng trầm của tổ quốc đã làm cho bao nhiêu gia đình ly tán, kẻ ở người đi, kẻ lưu lạc, người tù tội. Gia đình của tôi tan tác và chia lìa. Giờ đây khi tôi trở về cố hương, đi tìm thân nhân thì người xưa không còn, nhớ lại các kỷ niệm cũ thì mọi sự thay đổi. Lòng tôi cứ ngẩn ngơ, tiếc nuối.
Tôi nghĩ dân tộc mình có quá nhiều đau khổ, đất nước mình lầm than, người dân có đời sống giàu nghèo, chênh lệch quá lớn. Có biết bao thảm cảnh đau lòng xẩy ra? Tại sao người ta không yêu thương đồng bào, không xây dựng đất nước mà chỉ nghĩ đến quyền lợi của riêng mình?
Giờ đây, tuổi đời tôi đã cao, tôi đang viết tập hồi ký để lại cho các thế hệ con cháu. Tôi vẫn mang trong lòng niềm hãnh diện của một sĩ quan Không Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hàng ngày tôi cùng vợ đi tham dự Thánh lễ để cầu nguyện cho quốc thái dân an. Ngoài ra, tôi dạy giáo lý Công Giáo cho những người tân tòng. Tôi cũng tích cực tham gia vào các sinh hoạt của cộng đồng Công Giáo người Việt Nam.
Lạy Chúa, xin đoái thương đến dân tộc Việt Nam của chúng con và ban cho dân tộc con được tự do và no ấm! Amen.”
Kim Hà, 12/5/08
|