Tôi
sinh ra là đứa út ít trong nhà. Bố mẹ tôi đã chủ trương đặt tên
Thánh cho các con, hễ con trai thì ngoài tên riêng được thêm tên
của bố, hễ con gái thì ngoài tên riêng được thêm tên của Mẹ. Thế
là tôi có được tên Thánh thật dài: Giuse Maria Antôn. Ba mươi ba
năm sau, khấn DCCT ngày 1 tháng 8, tôi được thêm tên Thánh An
Phong. Thế là tôi luôn khoe với mọi người, rằng tôi được mừng
Bổn Mạng gần như... quanh năm: Thánh Giuse 2 lần, Thánh Antôn và
Thánh An Phong, mỗi vị 1 lần, riêng Đức Mẹ thì ngoài các lễ
trọng còn thêm 52 lần thứ bảy hằng tuần.
Nghe vậy cứ ngỡ tôi đạo đức sốt sắng ghê lắm, con cưng Đức Mẹ mà
! Thưa, không được như thế đâu,
tôi viết bài này
không phải như một hồi ký, nhưng xin được như một hồi ức về Mẹ,
chia sẻ với mọi người nhưng thật ra là để chính mình có cơ hội
để quỳ xuống cúi đầu xin lỗi Mẹ, để rồi sẽ yêu mến gắn bó với Mẹ
nhiều hơn, thật hơn, sâu hơn.
Đọc
những lời bộc bạch tâm sự này, nếu quý độc giả thấy có thể đồng
cảm được ở một góc nào, một mảnh nào, tôi sẽ mừng ghê lắm và
chúng ta sẽ càng thân nhau hơn trong tình nghĩa cùng là con cái
của Mẹ.
Tôi xin chia
sẻ thành hai phần:
Phần đầu tôi chọn tiêu đề là “Trong vòng
tay cứu giúp của Mẹ...” là những hồi ức với Mẹ từ tấm bé cho đến
năm tôi được 20 tuổi ( 1959 – 1979 )
Phần sau tôi xác tín “Đường đời tay Mẹ dẫn
đi...” với những cột mốc đánh dấu cuộc đời tôi hơn 30 năm qua (
1979 – 2009 ) trong vòng yêu thương của Mẹ, nhất là giai đoạn
tôi được Mẹ dẫn vào Dòng Chúa Cứu Thế của Mẹ.
PHẦN MỘT:
TRONG VÒNG TAY
CỨU GIÚP CỦA MẸ...
Trước ngày 30
tháng 4, tôi chỉ là một chú bé học sinh thành phố, ham chơi, lắm
trò nghịch ngợm, tuy nhiên cũng đã bắt đầu nếm trải những nỗi
kinh sợ máu lửa và bom đạn của cuộc đảo chính 1963, của Tết Mậu
Thân 1968, của mùa hè đỏ lửa 1972, và của những ngày tranh tối
tranh sáng 1975.
Mới ba, bốn
tuổi đầu, đi ông nha sĩ quen ở gần chợ Tân Định để nhổ mấy cái
răng sữa bị sâu, tôi đã chứng kiến những cuộc biểu tình phất
phới những tấm áo vàng của Nhà Phật với gạch đá, ống nước bằng
sắt và lựu đạn cay trước cuộc đảo chính 1 tháng 11 năm 63, lật
đổ ông Ngô Đình Diệm.
Mới chín,
mười tuổi, mê mẩn với trò đốt pháo đêm giao thừa Tết Mậu Thân
1968 thì ngay sau đó đã được nghe súng AK47 và B40 của quân Giải
Phóng nằm vùng nổ rền ngay trước hiên nhà. Sau đó, thì hằng đêm,
cả nhà tôi 8 người cùng chui vào cái hầm nổi diện tích chỉ có 4
mét vuông, chất đầy bao cát ngay giữa nhà, để may ra thoát chết
nếu có pháo kích của “mấy ổng” bằng hỏa tiễn 122 ly từ miệt Hóc
Môn rót vô tội vạ vào nội ô Sàigòn.
Và, may quá,
giữa cái không khí binh biến và chiến tranh chết chóc hãi hùng
ấy, ký ức niên thiếu của tôi còn được ghi dấu không phai những
kỷ niệm về Đức Mẹ.
Vâng, năm
1965, lúc ấy tôi mới lên sáu, bé xíu, đang học tiểu học với các
Nữ Tu Dòng Đức Bà Truyền Giáo ( Notre Dame des Missions ) ở Thị
Nghè, đi học được nghe các dì kể chuyện, về nhà lại được ba mẹ
tôi cho xem ảnh, cho đọc báo Thăng Tiến nên bây giờ còn nhớ rõ
lắm. Pho tượng Đức Mẹ Fatima gương mặt thật đẹp nhưng cũng thật
buồn, một giọt nước mắt luôn đọng nơi cánh mũi, ánh mắt nhìn sâu
thăm thẳm, hai cánh tay đưa ra với một tràng chuỗi lấp lánh long
lanh, như muốn trao, lại nửa như muốn níu, muốn kéo, muốn vớt
lấy đàn con khốn khổ.
Tôi
nghe gọi tên “Đức Mẹ Thánh Du”, rằng Mẹ đã đi khắp các nước trên
thế giới, rồi nay Mẹ đến thăm dân Việt, đất Việt. Mẹ không chỉ
đến các Trung Tâm Hành Hương lớn và các Nhà Thờ Chính Tòa của
các Giáo Phận, Mẹ vào cả Khám Chí Hòa gặp các tù nhân, vào Tổng
Y Viện Công Hòa gặp các thương bệnh binh. Mẹ đến tận cầu Hiền
Lương, sông Bến Hải, nơi lúc ấy còn cắt đôi đất nước... Bài
Thánh Ca của nhạc sĩ Hải Linh sáng tác từ xa xưa ngoài Bắc trước
thời di cư, nay được cất lên trong đầm đìa nước mắt: “Mẹ ơi,
đoái thương xem nước Việt Nam, trời u ám chiến tranh điêu tàn,
Mẹ hãy giơ tay ban phúc Bình An, nước Việt Nam qua phút nguy
nan”.
Ở Giáo Xứ
Phanxicô Đakao của tôi khi ấy có tổ chức cho từng gia đình đón
Đức Mẹ Fatima về nhà, rồi cả xóm, các liên gia kéo đến, cả những
người Phật Giáo ở gần đó, tất cả quây quần bên Mẹ đọc kinh lần
chuỗi, hát Thánh Ca thật là sốt sắng. Ngay đám nhóc tì chúng tôi
ngày thường hò hét chạy nhảy linh tinh, bỗng nhiên cũng biết
ngồi chăm chú khoanh tay xếp bằng trên những chiếc chiếu trải
dưới n ền nhà, sát ngay bàn thờ đặt tượng Mẹ. Của đáng tội, có
buồn ngủ quá thì nằm xoài ra đấy cũng chẳng ai la mắng, mắt nhắm
tịt nhưng mà có chịu ngủ đâu, tai vẫn lắng nghe từng vần hát
cung kinh ngân nga da diết.
Đầu năm 1974,
Đức Mẹ Fatima lại Thánh Du đến Việt Nam một lần nữa. Lúc ấy
chiến sự Bắc Nam đã dữ dội lắm rồi. Mẹ lại khóc, cả đất nước,
người giáo người lương cùng khóc. Trong một buổi cung nghinh tại
Nhà Thờ Đức Bà Sàigòn, đám đông hàng vạn người đã vây kín các
lối đi, các cửa ngõ, không cách nào đưa Đức Mẹ ra đi.
Sau này tôi
nghe kể một giai thoại: cha Tiến Lộc, DCCT, đã nẩy ra sáng kiến,
đề nghị Ban Tổ Chức cho ngay một xe cứu thương hụ còi chạy đến,
rẽ đám đông để đưa được đuôi xe đến một ngách bên hông Nhà Thờ
Chính Tòa. Và Đức Mẹ đã được bọc kín bằng mấy tấm vải trắng, đặt
nằm lên băngca khiêng ra xe như một người bệnh đang cần đưa đi
cấp cứu. Và thế là Mẹ đã được “cứu giúp” kịp thời như Mẹ đã và
vẫn luôn cứu giúp con cái của Mẹ trong những khoảnh khắc tử
sinh.
Sang năm
1975, vừa hết Tết thì gần như mỗi ngày, lại thêm một tỉnh chìm
trong lửa khói, đoàn dân tỵ nạn vừa chạy từ tỉnh bên cạnh về,
chưa kịp dựng xong lều bạt tạm cư, đã lại nháo nhào bỏ chạy
tiếp. Người Sàigòn chúng tôi lúc ấy đâm ra ngơ ngác. Khắp nơi
người ta chạy về thành phố của mình, đến phiên mình thì biết
chạy đi đâu ?
Tôi đã từng
được bố tôi cho xem bức ảnh bà cụ di cư 54 từ Bắc vào Nam, của
nả chẳng có gì ngoài một giỏ cói gánh vai, thế mà tay vẫn cặp
theo bằng được bức ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp. Bây giờ hơn mươi năm
sau, tôi lại thấy cũng một bà già hao hao như thế, cũng chít
khăn mỏ quạ, cũng răng đen mã tấu, chạy từ Dốc Mơ, Gia Kiệm về,
thấy đất Sàigòn có lẽ cũng không ổn, lại loay hoay định tìm
đường chạy tỵ nạn tiếp về đến Rạch Giá, tay khư khư ôm một pho
tượng Đức Mẹ Fatima mà hình như lòng thì tin chắc rằng chính Mẹ
mới là người đang ôm mình vào lòng.
Ngày 8 tháng
4, tôi đang ôn bài chuẩn bị cho kỳ thi Brevet thì bom nổ ngay
giữa lòng Sàigòn. Tấm sàn gác gỗ tôi đang nằm như thụng xuống
rồi bật dội lên. Người ta ném bom Dinh Độc Lập. Cả thành phố
kinh hoàng xôn xao. Lính bắt đầu đóng chốt, giăng kẽm gai các
cửa ngõ vào Sàigòn. Tin tức lan nhanh, nhật báo bán đắt như tôm
tươi, vật giá gạo sữa và xăng nhớt tăng chóng mặt.
Hôm sau, gia
đình tôi được tin ông anh rể là sĩ quan bị phục kích bắn chết ở
Hóc Môn. Cả nhà lên nhận xác người thân trên Nghĩa Trang Quân
Đội giữa tiếng khóc như ri của mấy chục bà vợ lính ôm ghì xác
chồng, mấy trăm đứa trẻ con lính tròn xoe mắt nhìn xác bố. Buổi
chiều mây mù ảm đạm, chợt có tiếng mẹ tôi bắt kinh Kính Mừng,
thế là mọi người râm ran đọc theo, cả những gia đình không Công
Giáo cũng như lắng nỗi đau lại, kìm nén và chịu đựng.
Chiều 28
tháng 4, tôi đang dự Thánh Lễ chiều ở Nhà Thờ Phanxicô Đakao thì
bom lại nổ như sấm rền, súng đại liên và cao xạ giật đùng đùng
như nhịp chày giã từng tràng tức muốn vỡ lồng ngực. Sau này mới
biết có lại có máy bay phản lực ném bom Dinh Độc Lập. Sau khi
cho rước Lễ, cha Sở cho anh chị em Giáo Dân chạy lên hẳn Cung
Thánh để vào nấp sâu trong Tu Viện, riêng tôi thì liều lĩnh chạy
về nhà, cứ nép sát các bức tường dọc phố mà đi, tránh những lằn
đạn nảy tung trên mặt đường nhựa.
Tôi về được
đến nhà thì thấy cả gia đình đang ngồi xệp dưới đất ở phòng
trong, hướng mắt lên bàn thờ mà líu ríu đọc kinh. Vôi vữa trên
trần rơi xuống từng đợt, bức tượng Đức Mẹ đặt trên bệ cao như
rung rinh theo nhịp bom đạn hung hãn. Không ai bình tĩnh để nhớ
mà đọc được một kinh nào cho ra đầu ra đuôi, cuối cùng lại
vẫn... “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có
tội, khi nay và trong giờ lâm tử.”
Cứ thế, mấy
ngày liên tiếp, dân Sàigòn sống trong hoang mang sợ hãi của một
cuộc chiến đã gần tàn, tiếng máy bay gầm rú trên trời, tiếng xe
chạy hỗn loạn trên đường, tiếng người lạc nhau gọi nhau í ới,
tiếng trẻ con sơ sinh khóc ngằn ngặt, thỉnh thoảng nơi này chỗ
kia lại bùng lên một vụ nổ, một đám cháy và những cuộc xô xát
hôi của hỗn loạn.
Rồi 30 tháng
4... Không biết bao nhiêu người đã ra đi và bao nhiêu người ở
lại. Cũng chưa có ai thống kê được chính xác bao nhiêu người đã
nằm xuống, phía bên này lẫn phía bên kia...
Tôi học ba
năm cuối cấp 3 ở ba trường khác nhau. Trùng hợp thật dễ thương,
tôi đã khởi đầu với một trường tiểu học của các Nữ Tu Dòng Đức
Bà Truyền Giáo ( Notre Dame des Missions ), đến năm lớp 12 kết
thúc quãng đời Trung Học, tôi lại được gặp các Nữ Tu Dòng Đức Bà
( Dòng các nữ Kinh Sĩ Thánh Augustin ), vẫn quen được gọi là
Regina Mundi. Đức Mẹ tuy được tôn dương như một bà quý phái sang
trọng ( Notre Dame, Our Lady ) nhưng với nhận thức của một chú
thiếu niên mới lớn, tôi đã đồng hóa một số Nữ Tu hiền hòa nhân
hậu, lại vui vẻ nhỏ nhẹ, cởi mở dễ thương với chính Đức Mẹ, Đấng
cứ ngỡ là cao xa cách biệt, triều thiên lóng lánh đứng trên bệ
cao là cả và cõi đất này.
Hình như tất
cả để chuẩn bị cho sau này tôi được đến với Đức Mẹ gần hơn nữa,
thân tình hơn nữa, trong DCCT với Mẹ Hằng Cứu Giúp, tước hiệu
nếu được dịch sát, cũng phải được vinh danh là Đức Bà ( Notre
Dame du Perpétuel Secours – Our Lady of Perpetual Help ).
Với hai Nhà
Dòng Đức Bà, tôi xin ghi nhớ mãi công ơn của các Nữ Tu đã dạy dỗ
tôi, đặc biệt là các vị đã được Chúa gọi về: Sr. Jeanne de
Valois, Sr. Raphael, Sr. Paul, Sr. Joseph Lê Thị Thơm và cô giáo
Tâm Lý Chiều Sâu, Sr. Tô Thị Ánh.
Còn nhớ những
năm 1977 – 1978, vừa mới qua biến cố 75 không lâu, bao nhiêu là
xáo trộn trong xã hội và trên toàn đất nước, vậy mà sao buổi
sáng hễ cứ lọt được vào khoảng sân trường trải sỏi và nhiều bóng
cây râm mát của Dòng Đức Bà, lũ học trò con trai chúng tôi như
thể tìm được một không gian bình yên và nhân ái, thanh cao và
thánh thiện, thoát khỏi mọi thứ mít-tinh, cờ quạt, khẩu hiệu, ồn
ào xôn xao.
Chắc có lẽ
bên Sở Giáo Dục cũng không thể lường được là một ngôi Nguyện
Đường xinh xắn ấm áp nằm lọt ngay giữa khuôn viên một trường học
cấp 3 của Nhà Nước XHCN lại có một tác dụng tâm linh sâu xa
tuyệt vời như thế nào đối với chúng tôi lúc ấy, cả dân Công Giáo
cũng như bên lương, cả đối với các đoàn viên Thanh Niên Cộng Sản
!
Thi tốt
nghiệp Phổ Thông ( nay gọi là Tú Tài ) vừa xong, cũng là lúc bạn
bè chúng tôi xa nhau, mất nhau, một loạt đi vượt biên, khá nhiều
bạn phải theo gia đình đi Kinh Tế Mới hoặc phải vào đời sớm để
mưu sinh vì trong nhà còn có người đi học tập cải tạo. Chiến
tranh biên giới Tây Nam nổ bùng, một số bạn trai phải đi bộ đội
hoặc thanh niên xung phong sang tận Kampuchea. Chỉ còn một số ít
lọt được vào Đại Học.
Bản thân tôi
cũng đinh ninh mình đi thi vào trường Kiến Trúc chơi cho vui vậy
thôi, lý lịch gồm đủ bộ: Bắc Kỳ, Công Giáo di cư, bố ngụy quyền,
anh ngụy quân, thành phần tiểu tư sản trí thức thành thị... thì
làm gì mà dám mơ tưởng đến chuyện làm sinh viên ?
Hôm ấy, tôi
đi chơi lông bông với mấy đứa bạn, đến trưa về nhà, chị tôi bảo:
“Sáng nay mẹ đang quét sân thì có thư, ba mở xem thì ra giấy báo
cậu được gọi trình diện trường Kiến Trúc. Ba đã bắt cả nhà vào
quỳ gối trước bàn thờ đọc kinh lần chuỗi tạ ơn Đức Mẹ đấy ! Ba
bảo đây là đứa con đầu tiên trong dòng họ nội ngoại được Mẹ
thương cầu bầu cho vào được Đại Học !”
Mà đúng thật là phép lạ, sau này tôi vào
trường rồi, tìm hiểu mới biết bài vẽ của tôi rất tốt nhưng vẫn
bị đánh rớt vì lý lịch quá xấu, thế nhưng sau khi gọi tập trung
đợt một, có quá nhiều bạn không ra trình diện, có lẽ vì đã vượt
biên, thiếu túc số trầm trọng, trường phải xét đậu vớt. Và thế
là tôi được công nhận là sinh viên của Nhà Nước, hàng tháng lãnh
học bổng 18 đồng, được mua gạo, mua nhu yếu phẩm với giá cực rẻ,
lại được cho cha mẹ “ăn theo” mấy chục ký lương thực ngay trong
giai đoạn bao cấp, cả nước đang phải ăn bo bo với khoai lang trừ
cơm !
Hai mươi năm
đầu đời của tôi cuối cùng được lại ghi dấu bằng một biến cố sinh
tử mà tôi tin chắc mình đã được Đức Mẹ gìn giữ. Xập tối một ngày
cuối năm 1979, tôi phải vào Nhà Thương Sàigòn cấp cứu, cứ ngỡ là
đau bụng lình xình, không ngờ chỉ tý nữa thôi là vỡ ruột thừa !
Ca mổ của tôi là ca thứ tư, các bác sĩ và y tá đã quá đuối sức
với những ca phức tạp trước đó, nhưng mạng sống tôi đã được cứu
kịp thời.
Nằm trong
phòng hậu phẫu, tôi vẫn còn thiêm thiếp trong cơn nửa tỉnh nửa
mê, chỉ biết tay mình đang nắm thật chắc một bàn tay ai đó để
bình an thiếp vào giấc ngủ. Đến sáng, tôi mở mắt thì thấy ba tôi
đang ngồi gục đầu lên giường bệnh của tôi, một tay nắm chặt bàn
tay tôi, một tay cầm xâu chuỗi, như thể ba tôi muốn làm một gạch
nối giữa đứa con trai út đang thập tử nhất sinh với Đức Mẹ, Mẹ
Hằng Cứu Giúp.
Vậy đó, bây giờ nhìn lại đã mấy mươi năm
trôi qua, ký ức tôi cũng một phần nhạt phai, chỉ còn giữ lại
những nét hằn sâu của lịch sử và những vết sẹo từ các thương
tích của chính đời mình, của bạn bè tôi, của từng gia đình, từng
con người thời chiến tranh loạn ly và cả thời hậu chiến, tưởng
là đã hòa bình nhưng vẫn có quá nhiều tang tóc đổ vỡ.
Và tôi cảm nhận rõ, tất cả, những người
quanh tôi, lương lẫn giáo, miền Bắc miền Nam, người thắng kẻ
thua, vô thần hãy tín hữu, bản thân tôi và mọi người, đều đã
sống, đã khóc đã cười, đã bước đi trong vòng tay cứu giúp của
Mẹ, cho dù có thể thâm tâm vẫn chưa nhìn ra Mẹ, thậm chí vẫn
chống đối Mẹ ra mặt. Mẹ vẫn là Mẹ, mà lại là Hằng Cứu Giúp nữa
cơ chứ... Mẹ luôn là Mẹ của tất cả, tất cả đều là những đứa con
cần có tình thương của Mẹ nuôi cho lớn khôn...
Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin tiếp tục cứu giúp
chúng con. Amen.
Lm. LÊ
QUANG UY, DCCT, Lễ Đức Mẹ Thăng Thiên, Chúa Nhật 15.8.2010
Xin hẹn đến PHẦN HAI ( 1979 – 2009 ), ĐƯỜNG
ĐỜI TAY MẸ DẪN ĐI...