Fatima: Máu tử
đạo vẫn còn tiếp tục chảy
Từ
ngày công bố „Bí mật thứ ba của sự kiện
Fatima“ vào năm 2000, ở Vatican
người ta đã xác tín rằng qua biến cố ĐTC
Gioan Phaolô II bị bắn trọng thương trên chính quảng
trường Thánh Phêrô ở Roma, thì thị kiến của
ba trẻ Fatima về „vị Giám Mục mặc áo trắng
bị giết hại“ đã thành hiện thực. Thế nhưng, ngày nay nhiều người lại
có quan niệm khác.
Chúng
ta biết rằng, từ hàng thập niên qua, các tín hữu
có lòng sùng kính Đức Mẹ Fatima và cả những thành
phần nghi ngờ sự thật của biến cố
Fatima và cho rằng sứ điệp của Đức
Maria được giao phó cho ba trẻ Fatima năm 1917, chỉ
là một sự lừa bịp có hậu ý, đều nóng
lòng chờ đón sự công bố phần thứ ba của
bí mật mà Đức Mẹ đã mặc khải cho ba trẻ
chăn chiên năm xưa ở Fatima. Trong khi hai phần
trước của bí mật đều đã được
công khai hóa, đó là: Thị kiến về hỏa ngục
và lời tiên báo về thế giới chiến II. Và dĩ nhiên, cả hai phần đó đều
không phải là những tin vui đối với quan niệm
thế gian bình thường. Vì thế,
người ta càng tò mò muốn được biết sự
thật phần thứ ba của bí mật Fatima là gì. Có người
đã tự hỏi phải chăng bí mật thứ ba này
sẽ là sự trừng phạt của Thiên Chúa đối
với tội lỗi nhân loại và ngày tận thế sẽ
xảy tới?
Đối
với các thành phần bảo thủ quá khích trong Giáo Hội,
thì đương nhiên sự trừng phạt tội lỗi
nhân loại là một điều khó tránh khỏi, và họ
cho rằng phía sau bí mật thứ ba này là những lời
cảnh cáo nghiêm trọng trước các quyết định
của Công Đồng Vatican II và những hậu quả
phá đổ Giáo Hội phát xuất từ đó và bắt
đầu từ „trên xuống“, tức từ hàng
ngũ lãnh đạo Giáo Hội. Thế
nhưng, vào Năm Thánh 2000, khi tấm màn che đậy bí mật
thứ ba của Sứ Điệp Fatima được
kéo xuống, thì tất cả sự thật lại hoàn toàn
khác hẳn.
Chỉ
một số người đặc biệt mới
được đọc bản văn
Nhưng
người ta thử hỏi: Thực sự điều gì
được giấu kín trong phần ba của Sứ
điệp mà Đức Mẹ đã giao phó cho ba trẻ Fatima, hay như nhiều
người vẫn gọi là „bí mật thứ ba của
Fatima“?
Chúng
ta biết rằng hai phần đầu của Sứ
Điệp mà Mẹ Thiên Chúa đã giao phó cho Sơ Lucia dos
Santoc cũng như cho hai người em họ của
Sơ là Phanxicô và Gia-xin-ta Marto, thì Sơ đã viết ra trên
giây vào ngày 31.08.1941 và sau đó đã được Đức
Thánh Cha Piô XII công bố vào ngày
13.05.1942. Còn phần ba hay „bí mật thứ ba“ của
Sứ Điệp thì mãi tới tháng giêng năm 1944 mới
được Sơ Lucia ghi lại, bỏ vào một bao
thư và được niêm phong cẩn thận. Sau đó, bí mật thứ ba này chỉ các Đức
Giáo Hoàng và một ít nhân vật đặc biệt mới
được đọc qua mà thôi.
Sau
khi lên ngôi Giáo Hoàng, Đức Gioan XXIII đã đọc bí mật
ấy và ngài lại truyền bỏ vào bao thư và niêm phong
trở lại, vì ngài không thể tìm ra mối tương
quan giữa bí mật thứ ba Fatima với những biến
cố xảy ra vào lúc bấy giờ. Bởi vậy,
năm 1960 của thế kỷ trước là thời
điểm mà Sơ Lucia đã nghĩ rằng Đức Thánh
Cha sẽ cho công bố phần thứ ba ấy, lại qua
đi mà không có gì xảy ra. Và tiếp sau đó, dưới
triều đại Giáo Hoàng của Đức Phaolô VI, „bí
mật thứ ba“ của Sứ Điệp Fatima vẫn
được niêm phong trong Văn khố Tòa Thánh, mãi cho tới
năm 1979 khi Đức HY Karol Wojtyla, người Ba Lan,
được bầu làm Giáo Hoàng với tước hiệu
Gioan Phaolô II và sau cuộc ám sát ngài vào ngày 13.5.1981 tại quảng
trường Thánh Phêrô, ngài đã nhận ra được
rằng chính ngài là „vị Giám Mục mặc áo trắng“
được nói tới trong thị kiến ấy. Và kể từ thời điểm đó, việc
công bố bí mật thứ ba của Fatima chỉ còn vấn
đề thời gian.
Trong
chuyến tông du Bồ Đào Nha và Fatima của ngài vào ngày
14.5.2010, nhân dịp kỷ niệm 10
năm lễ phong chân phước cho hai trẻ thị kiến
Phanxicô và Gia-xin-ta, Đức Thánh Cha đã tuyên bố „sứ
điệp mang tính chất tiên tri của Fatima“ vẫn
còn phải được tiếp diễn, thì ba phần của
thị kiến hay ba bí mật Fatima lại sống động
trở lại và đã lôi kéo được sự chú ý của
cả thế giới.
Phần thứ nhất của Sứ điệp
là sự nhìn thấy hỏa ngục. Vào năm 1941, Sơ Lucia
đã viết: „Đức Trinh Nữ Maria đã chỉ
cho chúng con nhìn thấy một biển lửa rộng mênh
mông, hình như nó nằm sâu dưới đất. Chúng con
nhìn thấy ngụp lặn trong biển lửa đó là ma
quỷ và các linh hồn có hình dáng người, thân thể họ
đều đỏ rực như đang cháy, trong suốt
và đỏ hồng (…).“
Phần
thứ hai của Sứ Điệp là sự báo trước
về thảm họa thế giới chiến II và sự
ăn năn trở lại của nước Nga với những
lời do chính Đức Mẹ nói cùng ba trẻ mà sơ
Lucia đã ghi lại nguyên văn như sau: „Các con đã nhìn
thấy hỏa ngục, nơi các linh hồn những kẻ
tội lỗi sẽ phải sa vào. Để cứu vớt
các linh hồn ấy, Thiên Chúa muốn thiết lập sự
tôn sùng Mẫu Tâm Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ trên
khắp thế giới. Nếu nhân loại thực thi tất
cả những gì Mẹ nói với các con đây, thì nhiều
người sẽ được cứu rỗi và hòa bình
sẽ được vãn hồi. Chiến
tranh sắp sửa kết thúc. Nhưng nếu thiên hạ
không chấm dứt việc xúc phạm đến Thiên Chúa
(…), thì một cuộc chiến tranh khác còn tàn khốc
hơn sẽ xảy ra (…). Để ngăn cản những
điều đó, Mẹ sẽ trở lại để
yêu cầu người ta dâng hiến nước Nga cho Mẫu
Tâm Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, cũng như yêu
cầu người ta thực hành việc xưng tội
rước lễ các ngày Thứ Bảy Đầu Tháng.“ Đó là những lời tâm huyết và
thành khẩn của Mẹ Thiên Chúa nói với toàn thể con
cái loài người.
Cuối
cùng là phần thứ ba hay bí mật thứ ba của Sứ
Điệp Fatima mà chính ĐHY Tổng trưởng Thánh Bộ
Giáo lý Đức tin, Joseph Ratzinger, đã được
ĐTC Gioan Phaolô II ủy quyền công bố vào ngày 26.6.2000.
Bí mật thứ ba này đã được Sơ Lucia ghi lại
rõ ràng trên giây vào năm 1944 như sau: „Trong hai phần
trước mà con đã trình bày, chúng con đã nhìn thấy
phía bên trái Đức Bà một vị Thiên thần đang cầm
trong tay một thanh gươm bằng lửa; và từ
thanh gươm ấy lửa bốc ra như thể muốn
đốt cháy cả thế giới vậy. Nhưng khi những
ngọn lửa chạm phải ánh hào quang từ tay phải Đức Bà chiếu ra trên vị
Thiên thần, thì ngọn lửa bị dập tắt. Còn vị
Thiên thần thì giơ tay phải chỉ vào mặt đất
mà hô to: `Hãy ăn năn đền tội, hãy ăn năn
đền tội, hãy ăn năna đền tội!`Và
chúng con đã thấy một ánh sáng kỳ lạ, đó là
Thiên Chúa: `Một cái gì`xem như thể những con người
trong một tấm gương, khi họ đã đi qua tấm
gương rồi thì chúng con thấy một vị Giám Mục
mặc áo trắng, và chúng con biết ngay đó là Đức
Thánh Cha. Nhiều vị Giam Mục, Linh Mục và Tu Sĩ
nam nữ khác trèo lên một ngọn núi dốc, trên đỉnh
núi có dựng một tượng Thánh Giá được làm
bằng gỗ thô, hình như bằng gỗ cây sồi còn
để cả vỏ. Trước khi Đức Thánh Cha
đến chỗ đó, ngài đi qua một thành phố lớn,
mà một nửa đã bị phá hủy, còn một nửa
cũng sắp bị đổ, với những bước
đi run rẩy do bị đau đớn và lo lắng,
ngài cầu nguyện cho các linh hồn của những xác chết
ngài đã gặp trên đường đi. Khi
đã đến được ngọn núi, ngài quỳ xuống
dưới chân tượng Thánh Giá khổng lồ. Ở đó ngài bị một đám lính giết chết.
Họ bắn súng và mũi tên vào ngài. Sau đó, các vị
Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ và nhiều người
khác, cả đàn ông lẫn đàn bà thuộc mọi giai cấp
và địa vị, cũng bị chết tương tự
như thế. Dưới hai cánh tay Thánh
Giá có hai vị Thiên thần, mỗi vị cầm một
chiếc bình bằng thủy tinh trên tay. Các vị hứng
máu của những vị Tử Đạo vào trong bình và
đưa cho các linh hồn ở gần Chúa uống!“
Ý
nghĩa của thị kiến về bí mật thứ ba
đã hiển nhiên
Từ
khi công bố phần thứ ba của bí mật Fatima, tại Vatican người
ta đã cho rằng ý nghĩa của thị kiến về
„vị Giám Mục mặc áo trắng“
đã quá hiển nhiên. Thật vậy, phần thứ
ba của bí mật Fatima đã được hiện thực
một cách rõ ràng qua cuộc ám sát ĐTC Gioan Phaolô II vào ngày
13.5.1981 tại quảng trường Thánh Phêrô và làm ngài bị
trọng thương. Vì thế, năm 2000, ĐHY Tổng
trưởng Thánh Bộ Đức tin Joseph Ratzinger đã viết
trong lời bình luận thần học của ngài về việc
công bố phần thứ ba của bí mật Fatima như sau: „Trên con
đường Thánh giá của một thế kỷ, hình ảnh
Đức giáo Hoàng đóng một vai trò đặc biệt.
Trong nỗ lực trèo lên ngọn núi đầy vất vả
mệt nhọc của ngài, chúng ta thấy rõ ràng là có rất
nhiều Đức Giáo Hoàng trong đó, bắt đầu
là Đức Piô X mãi cho tới Đức Giao Hoàng
đương kim, các ngài đều đã mang nỗi
đau khổ của thế kỷ trên mình và cố gắng
đi đầu trên con đường tiến về Thánh
Giá. Theo thị kiến ấy, thì trên con
đường tử đạo, Đức Giáo Hoàng
cũng bị sát hại. Phải chăng sau vụ ám
sát ngài vào ngày 13.5.1981 và rồi ngài đã cho đọc bản
văn ghi bí mật thứ ba của fatima, Đức Thánh Cha đã
có thể nhận ra được định mệnh của
cá nhân ngài? Ngài đã từng đứng trước ngưỡng
cửa cái chết và cũng đã nói đến việc
ngài được cứu sống bằng những lời
sau đây vào ngày 13.5.1994: „(…) quả thực
là bàn tay hiền mẫu đã lái hướng bay của viên
đạn và đã ban phép cho Đức Giáo Hoàng, một
người đang phải vật lộn với tử thần,
được đứng lại trước ngưỡng
cửa cái chết.“ Vâng, việc `mano materna` - bàn tay hiền
mẫu, đã lái hướng bay của những viên đạn
định mệnh đi sang một hướng rõ ràng
như thế, đã cho thấy một lần nữa rằng
không hề có một định mệnh bất biến,
cũng như đức tin và lời cầu nguyện là những
sức mạnh có thể can thiệp vào lịch sử, và
sau cùng cũng cho thấy rằng lời cầu nguyện
có sức thắng lướt được các viên đạn
và đức tin thì mạnh mẽ hơn cả bao sư
đoàn quân sự.“
Tuy
nhiên, trong việc giải thích ý nghĩa bí mật thứ ba
của Fatima, người ta cũng phải
kể đến vai trò đặc biệt của ĐHY
Tarcisio Bertone, Quốc Vụ Khanh đương kim. Chúng ta biết rằng vào năm 2000,
ĐHY Tarcisio Bertone đang là thư ký của Thánh Bộ
Đức tin và đã thừa lệnh Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II sang Bồ Đào Nha ba lần để gặp
trực tiếp Sơ Lucia và xin Sơ xác định chắc
chắn rằng bản văn ghi phần ba của bí mật
Fatima đang được niêm phong và cất giữ tại
Văn khố Tòa Thánh là chính do Sơ viết ra. Về nội
dung những cuộc gặp gỡ này giữa ngài và Sơ
Lucia, ĐHY Bertone đã cùng với ký giả người Ý
Giuseppe De Carli trìng bày rõ ràng trong một cuốn sách dưới
hình thức phỏng vấn giữa hai người, với
tựa đề là „Nữ thị nhân của Fatima – Những
cuộc nói chuyện giữa tôi và Sơ Lucia.“ Cũng
trong cuốn sách này ĐHY Bertone đã xác nhận ý kiến
của nhiều người, trong số đó phải kể
cả Đức Giáo Hoàng Wojtyla nữa, đã cho rằng sự
sát hại vị „Giám Mục mặc áo trăng“
được đề cập tới trong „bí mật
thứ ba của Fatima“ đã hoàn toàn được hiện
thực qua cuộc ám sát ĐTC Gioan Phaolô II vào ngày 13.5.1981 tại
Roma, mặc dù „bàn tay hiền mẫu“ của Đức
Maria đã lái cho những viên đạn của tên khủng
bố Mehmet Ali Agca bay sang hướng khác và nhờ thế
Đức Thánh Cha chỉ bị trọng thương mà
thôi. Trong cuốn sách trên bằng Đức ngữ do nhà xuất
bản Heyne-Verlag (Bayerstrasse 71-73, D-80335 München) phát hành, có ghi
lời phát biểu của ĐHY Quốc Vụ Khanh về
phần thứ ba „bí mật Fatima“ như
sau: „Thật ra, các ký giả không muốn chấp nhận
rằng lời nói tiên tri thì không tương quan tới
tương lai, nhưng là đã được hiện thực
trong quá khứ.“
Sứ
Điệp mang tính cách tiên tri của Fatima chưa kết thúc
Cách
đây bốn tháng, tại ngay địa điểm Đức
Mẹ hiện ra năm xưa ở Fatima, thuộc nước
Bồ Đào Nha và cũng lại là ngày 13 tháng 5, ĐTC
Bênêđíctô XVI đã tuyên bố: „ Ai cho rằng Sứ
Điệp tiên tri của Fatima đã được kết
thúc, thì người ấy đã lầm“. Cả chính
ĐHY Quốc Vụ Khanh Bertone, một người đã
luôn hăng hái tranh đấu cho Sứ Điệp Fatima, cũng cho rằng lời
tiên tri trong thị kiến về bí mật thứ ba của
Fatima đã thực sự trở
thành thực tại qua cuộc ám sát ĐTC Gioan Phaolô II vào
ngày 13.5.1981. Và vào tháng 5 vừa qua, trong lần tái bản thứ
hai của cuốn sách bằng tiếng Ý về „Bí mật
thứ ba của Fatima“ của ngài mà chúng ta đã trích câu
phát biểu trên, ĐHY Quốc Vụ Khanh Bertone còn bổ
túc thêm ý kiến của ngài bằng những lời phát biểu
quan trọng mang tính cách quyết định như sau: „Tuy
người ta đã định nghĩa một cách khôn
ngoan dè dặt, nhưng lời tiên báo trong thị kiến quả
thực có tương quan với sự tử đạo của
Giáo Hội, như đã từng tiếp tục xảy ra
trong hàng thế kỷ qua, cả trong thế kỷ XXI này của
chúng ta nữa.“
Sứ Điệp Fatima, mà Mẹ
Thiên Chúa đã khẩn thiết công bố cho nhân loại qua
sự trung gian của ba trẻ chăn chiên năm xưa, vẫn
luôn còn đó, vẫn luôn sống động. Một thị kiến
mang tính chất tiên tri, mà Giáo Hội đã công nhận, vẫn
còn chứa đựng đầy tính cách thời sự của
nó, chứ chưa rơi vào dĩ vãng như nhiều người
tưởng.
Sau
khi ĐTC Gioan Phaolô II đã xác tín rằng „Bí mật thứ
ba“ của Sứ Điệp Fatima có tương quan với
định mệnh của ngài, thì vào năm 2000 những
người có lòng sùng kính Đức Mẹ Fatima đã không
khỏi thắc mắc nghi ngờ, vì cuộc ám sát Đức
Gioan Phaolô II năm 1981 chưa gây nên một hình thức khủng
khiếp có tính cách thế mạt hay một cuộc khủng
hoảng rộng lớn trong Giáo Hội; nghĩa là cuộc
ám sát đó chưa hẳn là đối tượng thực
sự của phần ba bí mật Fatima, mà ba trẻ chăn
chiên năm xưa đã được thị kiến. Trái
lại, người ta cho rằng cuộc ám sát Đức
Gioan Phaolô II năm nào mới chỉ là một biến cố
bất hạnh xảy ra trong cuộc sống một vị
Giáo Hoàng mà thôi.
Vì
thế, người ta tự hỏi: Phải chăng trực
giác của ĐTC Gioan Phaolô II là hoàn toàn đúng khi ngài xác tín
rằng „bí mật thứ ba của Fatima“ được
giải mã qua cuộc ám sát ngài tại quảng trường
Thánh Phêrô? Và tiếp sau đó là sự chứng nhận của
Đức Hồng Y Bertone, đã được trình bày
trong cuốc sách viết về biến cố Fatima của ngài như đã
nói trên, cũng không đã rõ ràng và không cần bàn cãi nữa?
Đó cũng là nỗi thắc mắc của không ít các
phóng viên báo chí đã đặt ra nhân dịp cuộc tông du
Fatima vừa qua của ĐTC Bênêđíctô XVI, khi họ hỏi:
Phải chăng cuộc ám sát Đức Gioan Phaolô II vào ngày
13.5.1981 hoàn toàn thực sự là nội dung của thị
kiến về „Bí mật thứ ba của Fatima“? Bởi
vì, trong thị kiến của ba trẻ chăn chiên Fatima về
„Bí mật thứ ba“ không chỉ một mình vị “Giám
Mục mặc áo trắng“ bị sát hại, nhưng còn
có nhiều vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ
và giáo dân khác cũng bị sát hại nữa.
Đứng trước những thắc mắc
này, người ta có thể cảm thấy bị lúng túng,
nhưng không phải là hoàn toàn bất khả để tìm
ra được câu giải đáp. Thật vậy, người
ta có thể khẳng định được rằng sự
xác tín của ĐTC Gioan Phaolô II và sự chứng nhận của
Đức Hồng Y Bertone về sự tương quan chặt
chẽ giữa „Bí mật thứ ba của Fatima“ và cuộc ám sát Đức Giáo Hoàng vào ngày
13.5.1981 tại Rôma, nếu được xét theo từng phần,
thì hoàn toàn đúng; nhưng nếu xét theo toàn diện của
thị kiến, thì chưa đầy đủ. Bởi vì,
có lẽ thị kiến ấy phải được nhìn theo toàn diện cuộc tử đạo của
Giáo Hội thì mới đầy đủ được,
một cuộc tử đạo mà mọi thành phần Dân
Chúa đều tham phần vào: từ vị lãnh đạo
tối cao là Đức Giáo Hoàng cho tới người giáo
dân bình thường.
Thật
vậy, cuộc tử đạo của Giáo Hội nói
chung và của Đức Giáo Hoàng, của các Giám Mục,
Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ và của nhiều giáo dân nói
riêng, đã xảy ra trong suốt dòng lịch sử của
Giáo Hội, từ khởi đầu cho tới ngày nay và sẽ
còn tiếp tục xảy ra trong tương lai nữa,
đúng như lời phát biểu của ĐHY Bertone mà
chúng ta đã trích ở trên là „Cuộc tử đạo của
Giáo Hội đã từng tiếp tục xảy ra trong suốt
hàng thế kỷ qua và cả trong thế kỷ XXI này của
chúng ta nữa.“
Đó là điều chúng ta có thể kiểm
chứng được trong lịch sử thế giới
thời cận đại và ngày nay. Chẳng hạn: trong cuộc
nội chiến Tây Ban Nha vào các năm 1931-1939 giữa hai
phe: Quân quốc gia và phiến quân cộng sản, đã có
trên dưới 200.000 tín hữu Công Giáo bị giết hại
dã man, trong số đó có trên 7.000 Giám Mục, Linh Mục và
Tu Sĩ. Nhất là tại các nước khối Hồi
Giáo và các nước do Đảng cộng sản nắm
chính quyền, trước hết phải kể tới
Liên Bang Sô Viết cũ và Trung Cộng, v.v…, con số các
Kitô hữu, gồm các giáo dân, Tu Sĩ nam nữ, linh Mục
và Giám Mục, bị cầm tù, bị tra tấn dã man và bị
giết hại một cách cực kỳ vô nhân đạo,
thì thiết tưởng không còn nằm lại con số ngàn,
nhưng phải là con số triệu. Ngay cả
trong giờ phút này, ở Trung Cộng, nhiều Giám Mục,
Linh Mục và giáo dân vẫn còn bị giam cầm hay không
được hưởng quyền sống xứng
đáng của một con người.
Bởi
vậy, thị kiến có tính chất tiên tri về „Bí mật
thứ ba của Fatima“, tức sự tử đạo
của Giáo Hội, vẫn chưa được hiện
thực hoàn toàn. Nói cách khác, thị kiến đó vẫn còn
tiếp tục được hiện thực trong hiện
tại và tương lai, đúng như lời Đức
Thánh Cha Bênêđíctô XVI phát biều vừa qua tại Fatima: „Ai cho rằng Sứ
Điệp tiên tri của Fatima đã được kết
thúc, thì người ấy đã lầm.“
Và
điều đó muốn nói rằng tất cả mọi
Kitô hữu, bất kể đấng bậc và địa
vị, còn cần phải tiếp tục can đảm hy
sinh cho đức tin của mình vào Đức Kitô; hay nói
cách khác, máu tử đạo vẫn còn tiếp tục chảy.
Vâng, bao lâu trên thế giới này sự ác còn thắng lướt
sự thiện, sự gian dối còn thắng lướt sự
thật và sự bất công còn thắng lướt công lý,
thì máu tử đạo của các tín hữu Đức Kitô
vẫn chưa ngừng chảy.
Và
tất nhiên phần thưởng to lớn mà Cha trên Trời
dành những người luôn biết can đảm trung
thành với Đức tin là một điều hoàn toàn chắc
chắn. Chính hào quang bất diệt của các Thánh Tử
Đạo Việt Nam đã khẳnh định
điều đó, vì Đức Kitô đã hứa: „Kẻ
nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được
cứu rỗi!“ (Mt 24,13).
Lm
Nguyễn Hữu Thy