HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CN 27 TN B – KÍNH TRỌNG THỂ LỄ MÂN CÔI
Cv 1,12-14; Gl 4,4-7; Lc 1,26-38
SỨC MẠNH HOÁN CẢI CHỮA LÀNH CỦA KINH MÂN CÔI
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,26-38
(26)
Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai
Sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền
Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, (27) gặp một Trinh nữ
đã đính hôn với một người tên là Giu-se,
thuộc nhà Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a. (28)
Sứ thần vào nhà Trinh nữ và nói: “Mừng vui lên,
hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa
ở cùng Bà”. (29) Nghe lời ấy, Bà rất bối
rối, và tự hỏi lời chào như vậy có
nghĩa gì. (30) Sứ thần liền nói: “Thưa Bà Ma-ri-a
xin đừng sợ, vì Bà đẹp lòng Thiên Chúa. (31) Và này
đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và
đặt tên là Giê-su. (32) Người sẽ nên cao cả
và sẽ được gọi là Con Đấng Tối
Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai
vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. (33) Người
sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và
triều đại của Người sẽ vô cùng vô
tận”. (34) Bà Ma-ri-a thưa với Sứ thần:
“Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết
đến việc vợ chồng!” (35) Sứ thần
đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và
quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng
trên Bà. Vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là
thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. (36) Kìa bà
Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Bà, tuy đã già
rồi, mà cũng đang cưu mang một người con
trai: Bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay
đã có thai được sáu tháng. (37) Vì đối
với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
(38) Bấy giờ Bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ
tỳ của Chúa. xin Chúa cứ làm cho tôi như lời
Sứ thần nói”. Rồi Sứ thần từ biệt ra
đi.
2. Ý CHÍNH:
Câu chuyện Sứ thần Gáp-ri-en
được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Trinh
nữ Ma-ri-a giúp chúng ta nhận biết tình thương và
sự trung tín của Thiên Chúa trong việc thực hiện
lời hứa cứu độ loài người. Thiên Chúa
luôn đi bước trước bằng việc ban ơn
cứu độ và muốn cho loài người đón
nhận ơn ấy. Qua câu chuyện truyền tin hôm nay,
thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau
mắn “Xin vâng” của Đức Ma-ri-a chính là thái
độ mà các tín hữu cần làm khi đọc kinh
lần hạt trong tháng Mân Côi này
3. CHÚ THÍCH:
- C 26-27: +
Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng: Cách đây sáu
tháng, ông Da-ca-ri-a đã được Sứ thần
Gáp-ri-en hiện đến truyền tin khi ông đang thi hành
chức vụ tư tế trong Đền thờ. Sứ
thần hứa với ông rằng bà Ê-li-sa-bét vợ ông
sẽ sinh cho ông một con trai. Sứ mệnh của nó là
dọn đường cho Đấng Thiên Sai.. Quả
vậy, bà Ê-li-sa-bét đã có thai trong lúc tuổi già. Bà đã
ở trong nhà không tiếp xúc với ai suốt 5 tháng
trời (x. Lc 1,5-25). Đến tháng thứ sáu thì Sứ
thần Gáp-ri-en tiếp tục được sai
đến truyền tin cho Trinh nữ Ma-ri-a. +
Gáp-ri-en: Là một trong bảy Tổng lãnh thiên
thần (x. Tb 12,15), trong đó ba vị được nêu rõ
tên trong Cựu ước là: Mi-ka-en, Ra-pha-en, và Gáp-ri-en. Tên
của các vị này có ý nghĩa phù hợp với sứ
mệnh của mỗi vị như sau: Mi-ka-en nghĩa là
“Ai bằng Thiên Chúa?” (Đn 10,13-21;12,1), Ra-pha-en nghĩa là “Thiên
Chúa chữa lành” (Tb 3,17) và Gáp-ri-en nghĩa là “Anh hùng của
Thiên Chúa” (x. Đn 8,16). + Trinh nữ: hay
thiếu nữ, là một cô gái chưa lấy chồng.
Riêng về đức trinh khiết của Đức
Ma-ri-a đã được gián tiếp đề cập
đến qua câu ngài thưa với Sứ thần:
“Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi
không biết đến người nam” (Lc 1,34). Theo lời
tuyên sấm của Ngôn sứ I-sai-a thì: Việc một hài
nhi do một bà mẹ đồng trinh thụ thai là dấu
chỉ của Đấng Thiên Sai (x. Is 7,14). + đã
đính hôn: khi đính hôn, Giu-se và Ma-ri-a đã
được luật pháp công nhận là vợ chồng,
và con cái sinh ra trong thời kỳ này là con chính thức. Tuy
nhiên, theo phong tục Do thái thì việc kết hôn chỉ hoàn
tất khi bên họ đàng trai tổ chức lễ
cưới để đón rước cô dâu về nhà
chồng (x. Mt 1,18). + thuộc nhà Đa-vít: chi
tiết này thêm vào nhằm chứng minh Đức Giê-su là
Đấng Cứu Thế thuộc hoàng tộc Đa-vít,
để ứng nghiệm lời các Ngôn sứ đã tiên
báo như: Người phát xuất từ gốc tổ
phụ Giêsê là cha của vua Đa-vít (x.1 Sm 16,3.12) ;
Người sẽ sinh ra tại Bê-lem là quê hương
của vua Đa-vít (x. mk 5,1). + Ma-ri-a: hay
my-ri-am là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do thái
đương thời. Để phân biệt khi trùng tên,
người ta thường thêm một biệt danh sau tên
gọi. Chẳng hạn: Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Lc 8,2-3); Ma-ri-a
Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Ma-ri-a mẹ Gia-cô-bê và Giô-xép (x. Mt 27,56);
Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Ga 19,25); Ma-ri-a mẹ Gio-an (x.
Cv 12,12) và Trinh nữ Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su (x. Ga
19,25).
- C 28-29: +
“mừng vui lên”: Đây không phải là kiểu chào thông
thường của người Do thái, nhưng là lời
chào trong những trường hợp đặc biệt,
dành riêng cho những người được gặp
Thiên Chúa (x Dcr 9,9). + “đầy ân sủng”: một
tước hiệu dành riêng cho Ma-ri-a, một người
trong sạch vẹn toàn. Ngài đã được chọn
làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã
được Thiên Chúa ban cho đặc ân vô nhiễm nguyên
tội và được Chúa luôn ở cùng. + “Bà
bối rối và tự hỏi”: khác với thái
độ “bối rối sợ hãi” của Dacaria (x. Lc
1,12), Ma-ri-a chỉ ngạc nhiên và băn khoăn về ý
nghĩa của Lời Chúa vừa được Sứ
thần mặc khải (x. Lc 1,34 và 2,19).
- C 30-33: +
Này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và
đặt tên là Giê-su: Sứ thần giải thích cho
Ma-ri-a biết về sứ mệnh làm mẹ của Hài nhi
Giê-su. Giê-su nghĩa là “Cứu Chúa” (x. Mt 1,21) hay là
“Đấng Cứu Thế” (x. Lc 2,11). + “Con Đấng Tối
Cao”: Đây là tước hiệu thường
được áp dụng cho các vị vua dòng tộc
Đa-vít. Sứ thần ám chỉ Đức Giê-su là Vua
thuộc nhà Đa-vít. Người sẽ lên ngôi cai trị
dân Ít-ra-en, và triều đại của Người sẽ
vững bền mãi mãi.
- C 34: + so sánh
thắc mắc của Ma-ri-a với thắc mắc của
Dacaria (x. Lc 1,18): Tuy cả hai cùng đưa ra câu
hỏi, nhưng phát xuất từ hai tâm trạng khác nhau:
câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự hoài nghi về
quyền năng Thiên Chúa, nên ông đã bị phạt câm,
không nói được. sự cấm khẩu này là dấu
chỉ cho ông thấy việc bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ
sinh con là điều chắc chắn sẽ xảy ra (x. Lc
1,20). còn lời thắc mắc của Ma-ri-a thì biểu
lộ lòng tin: Ma-ri-a muốn tìm biết rõ thánh ý Chúa thế
nào để xin vâng. do đó, Ma-ri-a đã được
Sứ thần ca tụng là đấng “đầy ân phúc
hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Lc 1,30) và bà Ê-li-sa-bét
cũng khen ngợi Ma-ri-a là người “diễm phúc” vì
đã tin Lời Chúa phán sẽ được thực
hiện (x. Lc 1,45).+ “Việc ấy xảy ra cách
nào, vì tôi không biết đến người nam!”: “biết”
theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là “sự giao
hợp vợ chồng”. Thắc mắc của Ma-ri-a
ở đây không chứng minh Ma-ri-a đã khấn hay có ý
khấn giữ mình đồng trinh, vì động từ
“biết” ở đây thì hiện tại. Qua câu này, Ma-ri-a
chỉ thắc mắc là: làm sao thực hiện
được việc thụ thai ngay bây giờ
được, khi mà Ma-ri-a mới chỉ đính hôn
với Giu-se để nên vợ chồng về luật
đời, chứ chưa được Giu-se tổ
chức lễ cưới đón rước về nhà
chồng như phong tục Do thái?
- C 35: + Sứ
thần giải thích cho Ma-ri-a hiểu rằng: Vì
được Chúa tuyển chọn để làm mẹ
Đấng Thiên Sai, nên Ma-ri-a sẽ được thụ
thai cách đặc biệt nhờ quyền năng Thánh
Thần, đúng như I-sai-a đã tuyên sấm về
việc Đấng Cứu Thế sẽ do một trinh
nữ thụ thai và sinh hạ (x. Is 7,14). +
“quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng
trên Bà”: Kiểu nói “rợp bóng” nhắc lại
sự kiện xảy ra vào thời Xuất hành, khi dân Do
thái đi trong hoang địa trên đường về
Đất Hứa. Bấy giơ Đức Chúa luôn
hiện diện ở giữa dân Người, qua hình
ảnh của một cột mây rợp bóng che phủ nhà
tạm và lều hội ngộ (x. Xh 40,34-38). Rợp bóng
cũng ám chỉ sự bang trợ của Đức Chúa.
Như chim phượng hoàng giang rộng đôi cánh
để bao phủ che chở đàn chim con, thì Thiên Chúa
cũng giang rộng tay hùng mạnh để bang trợ
Ít-ra-en là con dân của Người (x. Tv 17,8). +
“Đấng thánh” sắp sinh ra sẽ là “thánh”: “Thánh”
nghĩa là thuộc về Thiên Chúa. Hài nhi sắp sinh sẽ
được hiến “thánh”, được dâng cho Thiên
Chúa để chu toàn sứ mệnh cứu thế.
- C 36-37: + kìa Bà
Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Bà, tuy đã già
rồi, mà cũng đang cưu mang một người con
trai: Để cho Ma-ri-a thấy quyền năng
cao cả của Thiên Chúa, Sứ thần đã báo cho Ma-ri-a
biết tin về bà chị họ Ê-li-sa-bét: tuy đã cao niên
và hiếm hoi, thế mà cũng đã được Thiên
Chúa cho thụ thai con trai, đến nay thai nhi đã
được sáu tháng rồi.
- C 38: + “Vâng, tôi
đây là nữ tỳ của Chúa”: khi tự
nhận là “nữ tỳ của Chúa”, Ma-ri-a đã biểu
lộ một nhân đức khiêm nhường và một
lòng tin yêu sâu xa đối với Thiên Chúa. +
“Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói”: Qua
câu này, Ma-ri-a đại diện nhân loại để
đón nhận ơn cứu độ do Thiên Chúa ban.
Thực vậy, ngay sau lời thưa “xin vâng” này, Thánh
Thần đã tác động làm cho Trinh nữ Ma-ri-a thụ
thai mà không cần phải tri giao vợ chồng (x. Lc 1,34).
Rồi Ngôi Lời “đã xuống thế làm người”,
nhập vào bào thai ấy để thành Đấng
“Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23).
Như vậy, Đức Giê-su chỉ có một Ngôi là “Ngôi
Con” hay “Ngôi Lời” Thiên Chúa, nhưng lại có hai bản
tính là Thiên Chúa và người phàm.
4. CÂU HỎI:
1) Gio-an
Tẩy Giả hơn Đức Giê-su bao nhiêu tuổi?
2) Thánh
kinh kể tên 3 vị Tổng lãnh thiên thần là những
vị nào? Tên gọi của mỗi vị có nghĩa
thế nào?
3) Câu
nói nào của Đức Ma-ri-a cho thấy ngài là thiếu
nữ đồng trinh? Tại sao phải nhấn mạnh
sự kiện đồng trinh trong việc Đức
Ma-ri-a thụ thai Hài Nhi Cứu Thế Giê-su?
4)
Việc kết hôn giữa thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a làm
cho hai người nên vợ chồng thật hay chỉ là
vợ chồng giả để che mắt người
đời?
5) Tin
Mừng muốn ám chỉ gì khi viết Giu-se “thuộc nhà
Đa-vít”?
6) Hãy
kể ra một số tên gọi Ma-ri-a trong Tin Mừng kèm
theo tên phụ Thêm tên phụ sau tên gọi như vậy
nhằm mục đích gì?
7) Khi
chào kèm tước hiệu “đầy ân sủng” của
Sứ thần nhằm ám chỉ đặc ân nào trong 4
đặc ân Thiên Chúa ban cho Đức Ma-ri-a?
8) Tên
gọi Giê-su mà Sứ thần ra lệnh cho Ma-ri-a
đặt cho con trẻ mang ý nghĩa gì?
9)
Tước hiệu “Con Đấng Tối Cao”
được gán cho Hài nhi Giê-su có ý nghĩa thế nào?
10)
Thắc mắc của ông Da-ca-ri-a trong Đền thờ (x
Lc 1,18) và thắc mắc của Ma-ri-a trong Tin Mừng hôm nay
có giống nhau không? Ông Da-ca-ri-a và Đức Ma-ri-a đã
gặp sự cố gì sau lời thắc mắc?
11) Khi
nói “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp
bóng trên Bà”, Sứ thần muốn ám chỉ điều gì?
12)
Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể xảy ra vào lúc
nào trong biến cố Truyền tin?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Bấy giờ Bà Ma-ri-a nói:
”Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... Đấng Toàn
Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh
Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,46.49).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Sức mạnh chữa lành bệnh
tật thể xác tâm hồn của chuỗi Mân Côi:
Cách đây ít lâu, tạp
chí Reader’s Digest có kể lại cuộc gặp gỡ
kỳ thú giữa Mẹ TÊRÊXA CALCUTTA và một thương
gia người Mỹ như sau:
Trên chuyến máy bay
từ CHRITIAMY về THANASITY, thương gia trẻ tên là
JIM CAISO ngồi kề bên Mẹ TÊRÊSA và một nữ tu
khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ
tu thường được báo chí nhắc đến.
Khi những người khách cuối cùng ngồi vào yên
vị trên máy bay thì Jim thấy hai người nữ tu
từ từ rút chuỗi ra khỏi áo và lâm râm cầu kinh.
Tuy không phải là một người công giáo sùng
đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi
cuốn bởi sự cầu kinh của hai người
nữ tu. Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn
người thanh niên và hỏi:
- Anh có
thường lần chuỗi không?
Anh trả lời:
- Thưa không.
Anh vừa trả
lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi
rồi mỉm cười nói:
- Vậy thì hãy
bắt đầu lần chuỗi đi.
Ra khỏi phi
trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi
của Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta. Anh kể lại cho vợ
nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết
luận như sau: “Tôi có
cảm tưởng như mình đã được gặp
một người nữ tu đích thực của Chúa”.
Chín tháng sau, Jim và vợ
anh đến thăm một người đàn bà đã
từng là bạn của hai người từ nhiều
năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết
đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là
trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim
đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của
Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta và trao cho người bạn và nói:
- Chị cầm
lấy cái này, nó sẽ giúp chị.
Mặc dù không phải
là người Công giáo, người bạn này vẫn
mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà
quí giá ấy. Một năm sau gặp lại vợ chồng
Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang
trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và đã
được khỏi bệnh. Giờ đây chị
trả lại cho Jim để may ra có thể còn giúp
đỡ được cho người nào khác. Trong
thời gian đó, bà chị vợ của Jim đang bị
khủng hoảng tinh thần sau cuộc ly dị, bà
cũng muốn được mượn tràng chuỗi
của Jim. Sau này bà kể lại rằng:
- Hằng đêm,
tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn
và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi
cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay
thân yêu.
Tràng chuỗi mầu
nhiệm ấy không mấy chốc đã được
trao từ tay người này đến người khác.
Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật,
người ta thường gọi điện thoại
đến Jim để mượn cho bằng
được tràng chuỗi ấy và đều
được ơn lành như ý.
Jim suy nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có
một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, tràng
chuỗi có sức mạnh giúp tất cả những ai mang
tràng chuỗi ấy canh tân tâm hồn và đã nhận
được ơn do việc canh tân mang lại. Jim
chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn
tràng chuỗi, anh đều vui vẻ cho mượn, và luôn
căn dặn họ: “Khi nào không cần dùng nữa thì vui
lòng cho tôi xin lại, vì có thể sẽ có người khác
cần đến tràng chuỗi ấy”.
Cuộc sống của
Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp
gỡ với Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta, và Jim hay chia sẻ
với bạn bè như sau: “Mẹ
Têrêsa đã mang tất cả hành lý của Mẹ chỉ
trong một cái xách tay nhỏ, Tôi cũng cảm thấy
được thôi thúc để làm cho cuộc sống
của mình được đơn giản hơn. Tôi luôn nhớ rằng:
điều quan trọng trong cuộc sống không phải
là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho
người khác”.
2) Đức tin của Phun-tơn
Ao-dơ-lơ (fulton oursler) được hồi phục nhờ
Mẹ MA-RI-A:
Vào một buổi chiều đông
lạnh giá, Phun-tơn, một người đã mất
đức tin và bỏ không đến nhà thờ nhiều
năm, đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp
nhiều vấn đề khó khăn nan giải. khi đi
qua đại lộ nhà thờ chính toà của thành phố
Nữu Ước, tự nhiên ông cảm thấy có một
sức mạnh vô hình cuốn hút ông vào trong nhà thờ và
đến quỳ trước tượng Đức
Mẹ. Sau một hồi im lặng, tự nhiên Phun-tơn
cầu nguyện như sau:
“Lạy Mẹ Ma-ri-a, có thể chỉ một giây lát
nữa thôi là con lại thay đổi ý nghĩ lúc này
để tiếp tục bài bác chế diễu việc
đạo đức con đang làm và quay trở lại con
đường vô tín của con. Nhưng bây giờ con
cảm thấy tâm hồn thật bình an, dù con đang
gặp rất nhiều khó khăn. Xin Mẹ giúp con thêm
đức tin”. Ngay lúc đó Phun-tơn cảm thấy
một điều gì đó kỳ diệu vừa xảy ra
nơi ông và biến ông trở thành một người
mới: Ông đã có đức tin! Từ đó, ông luôn
kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a để làm chứng
cho Chúa bằng một cuộc sống khiêm nhường,
cậy trông phó thác và đầy vị tha bác ái.
3. THẢO LUẬN:
Hai câu
chuyện trên cho thấy chuỗi kinh mân côi có vai trò nào trong
việc chữa lành bệnh tật và việc trở
lại với Chúa của ông Phun-tơn?
4. SUY NIỆM:
1) Vai trò của Mẹ MA-RI-A trong
chương trình cứu độ của Thiên Chúa:
Thiên Chúa đã ban cho loài người
chúng ta một Đấng Cứu Độ duy nhất là
Chúa Giê-su. Nhưng bên cạnh Đức Giê-su, Thiên Chúa còn
ban cho chúng ta một bà mẹ hiền đầy tình
thương và tích cực cộng tác với Đức
Giê-su trong công cuộc cứu độ loài người là
Thánh Mẫu Ma-ri-a.
Thực vậy, Mẹ Ma-ri-a luôn yêu
thương và cầu bầu cho những ai đang gặp
khốn khó như Mẹ đã dạy các người giúp
việc hãy làm theo lời Đức Giê-su tại tiệc
cưới thành Ca-na (x Ga 2,1-11). Mẹ đã
được chính Chúa Giê-su trăn trối làm Mẹ
của Hội Thánh mà tông đồ Gio-an là đại
diện, trước khi Chúa tắt thở trên thập giá
(x Ga 19,26-27);
Mẹ cũng thi hành nhiệm vụ
của một bà mẹ hiền khi hiệp cùng Hội Thánh
sơ khai cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống sau khi
Chúa Giê-su lên trời (x Cv 1,14).
2) Sức mạnh của Kinh Mân Côi trong các
biến cố lịch sử của Hội Thánh:
Trong lịch sử Hội Thánh,
mỗi khi con thuyền Hội Thánh gặp cơn phong ba có
nguy cơ bị chìm đắm, chúng ta lại thấy có bàn
tay trợ giúp của Mẹ Ma-ri-a.
Vào thế kỷ 12,
thánh Đa-minh đã được Đức Mẹ
hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một
thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng
được làn sóng lạc giáo An-bi-doa ở Miền Nam
nước Pháp đang đe dọa tiêu diệt Hội
Thánh.
Rồi dưới
triều đại Đức Thánh Cha Piô V, cũng nhờ
phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh một lần
nữa lại tránh được làn sóng xâm lược của
đạo quân Hồi Hồi tại vịnh Lê-păng vào
đầu thế kỷ 16.
Ngày nay, Đức
Ma-ri-a trở thành sứ giả được Thiên Chúa sai
đến đã hiện ra tại nhiều nơi trên
thế giới vào nhiều thời điểm khác nhau,
để nhắc nhở Hội Thánh đi đúng
đường lối của Chúa Giê-su và giúp các tín hữu
cải thiện đời sống, đón nhận ơn
cứu độ do Chúa Giê-su đem đến. Ta có thể
kể ra một số địa danh Mẹ đã hiện
ra như: Lộ Đức (Pháp), Pha-ti-ma (Bồ Đào Nha),
La Vang (Việt Nam), Mễ du (Nam Tư)...
3) Việc tông đồ truyền giáo trở
nên hữu hiệu nhờ kinh Mân Côi:
Thực ra, việc biến
đổi lòng những kẻ tội lỗi và vô tín
để họ quay về nhận biết tôn thờ Thiên
Chúa, và việc xóa bỏ các tệ nạn xã hội như
ma túy, cờ bạc, đĩ điếm, cướp
giật...trong đời sống mỗi người
sẽ khó lòng thực hiện thành công nếu chỉ
dựa vào khả năng giới hạn của chúng ta. Tuy
nhiên điều tưởng chừng không thể thực
hiện ấy lại không khó chút nào đối với Thiên
Chúa, vì: “Không có gì mà Chúa không làm được” (Lc 1,37).
Vậy để việc tông
đồ truyền giáo đạt được kết
quả, các tín hữu chúng ta cần noi gương Mẹ
Ma-ri-a kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su (x Ga
15,5). Rồi cùng với Mẹ, chúng ta sống đức
Tin bằng việc thực thi đức Cậy và
đức Mến trong cuộc sống đời
thường như Mẹ khi xưa. Kinh Mân Côi chính là
phương cách hữu hiệu giúp các tín hữu chúng ta
kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su và
Đức Mẹ để chiến thắng ba thù là ma
quỷ thế gian và tính xác thịt của mỗi
người.
4) Canh tân kinh Mân Côi bằng thêm Lời Chúa
lời cầu kèm theo việc lành:
Tuy nhiên, việc đọc kinh Mân Côi
chỉ mang lại hiệu quả tích cực nếu chúng ta
biết suy niệm 20 biến cố Vui Sáng Thương
Mừng trong cuộc đời Chúa Giê-su kèm theo lời
cầu nguyên quyết tâm sống theo gương Chúa làm và
lời Người dạy, như Mẹ đã làm xưa:
“Còn MA-RI-A thì ghi nhớ những sự kiện đó và suy
đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Mỗi ngày chúng ta hãy
thực hành các việc tốt cụ thể kèm theo
đọc một chục kinh Mân Côi theo một trong 20
mầu nhiệm. Nhờ đó chúng ta sẽ ngày một nên
tốt hơn và có thể chu toàn được sứ
vụ loan báo Tin Mừng đã được Chúa Phục
Sinh trao cho Hội Thánh trước khi lên trời.
TÓM LAI: Nhờ quyết
tâm sống theo Lời Chúa dạy noi theo gương mẫu
và lời dạy của Người như Mẹ Ma-ri-a,
chắc chắn chúng ta sẽ làm được những
việc lạ lùng kỳ diệu vượt quá khả
năng giới hạn của mình. Vì bấy giờ chúng ta
làm không bằng sức riêng, nhưng bằng sức
mạnh của ơn Chúa giúp qua lời cầu bầu
đắc lực của Mẹ, như lời thánh Phao-lô
dã dạy: ”Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu
đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn,
bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức ki-tô. Vì khi tôi
yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10). Chúng ta cũng
sẽ noi gương Mẹ MA-RI-A ca tụng ngợi khen
tình thương cứu độ của Thiên Chúa trong bài
kinh Ma-nhi-phi-cát: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…”
(Lc 1,46).
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa. Mỗi lần gặp
phải những khó khăn hoạn nạn xảy tới,
chúng con thường chỉ biết kêu trời trách
đất, hoặc tệ hơn lại tìm đến
với mê tín dị đoan như coi bói toán, cầu cơ,
tin đồng cốt... để tìm sự giúp đỡ
an ủi, đang khi lẽ ra chúng con phải cậy vào
ơn Chúa trợ giúp và sự phù trợ của
Mẹ Ma-ri-a, như Mẹ đã cầu bầu cho
đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa. Xin
Chúa giúp chúng con biết nghe lời Mẹ dạy là hãy
lắng nghe Lời Chúa Giê-su, tìm hiểu ý Chúa muốn và mau
mắn xin vâng như các người giúp việc trong
tiệc cưới xưa đã làm.
X) HIỆP CÙNG
MẸ MA-RI-A. – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM
ĐAN VINH - HHTM
|