Bâng Khuâng Niềm Nhớ
Đầu tháng bảy, trời động mưa nên oi bức và nóng như hỏa ngục! Lợi dụng lúc cha Trọng đang ngủ trưa, tôi rón rén khom người chui vào gốc cây bưởi bên cạnh bể nước sát bên hông nhà xứ Vinh Trung để lùng xem có quả nào khuân khuất có thể chôm chỉa... Cây bưởi này ngon có tiếng, nghe nói cha già Cần đã trồng từ lúc mới thành lập giáo xứ. Cha Trọng cũng thích ăn bưởi lắm nhưng vì đám kiến vàng lúc nào cũng ráo riết “hành quân” nên ngài không bao giờ tới gần, chỉ sai mấy chú giúp lễ “bứt” cho ngài mấy trái sắp chín đem vào ăn tráng miệng. Thỉnh thoảng Báu và tôi dấu đi một trái bằng cách uốn cành lá che khuất, đứng bên ngoài không cách nào nhìn thấy để khi thuận tiện “bứt trộm ăn cho đã thèm!” Báu cùng tuổi với tôi, cũng là con thiêng liêng của cha Trọng, đi chủng viện trước tôi một năm nên đúng ra tôi phải gọi bằng anh nhưng sự thường chúng tôi vẫn “mi tau” ngậu xị cả lên, trừ khi có mặt cha Trọng.
Tôi giật bắn người vì có tiếng con gái gọi nho nhỏ từ sau lưng:
- Anh Duy. Cha dậy chưa?
Hết hồn hết vía, tôi vội vàng chui trở ra, trừng mắt nhìn Hiền cằn nhằn:
- Em lên tìm Báu hả? Hắn đi tắm hồ trong sở cà phê với mấy đứa giúp lễ rồi. Răng biết anh ở đây mà kêu? Làm hết cả hồn!
- Em đến từ khi nãy tề... Thấy anh chui vô “gộc bòng” em mới kêu.
- Có chi không? Đi ra ngoài ni nói... Làm ồn cha dậy thì chết!
Tôi vừa lấy tay ra hiệu cho Hiền giữ im lặng vừa rón rén kéo tay nàng “đi như chạy” sang bên hông nhà thờ. Hiền là em gái của Báu, thua tôi vài ba tuổi nên nàng xem tôi như anh. Tôi cũng không hiểu tại sao với “anh Báu” thì Hiền cứ gọi tên trống không, còn với tôi thì lúc nào cũng “anh anh em em” ngọt xớt nên tôi cũng không dám “vô phép” với nàng. Hai má Hiền hơi ửng hồng, không biết tại trời nóng hay vì tôi sơ ý nắm tay nàng. Tôi chợt nhận ra Hiền đã lớn chứ không còn là một đứa con nít như ngày tôi mới biết nàng cách đây mấy năm. Tôi rụt rè buông tay, nói trống:
- Rầy à?
- Nỏ phải. Chỉ sợ ai nhìn thấy! Em... 13 tuổi rồi đó. Mẹ dặn không được cho con trai cầm tay!
- Anh chớ có phải “con trai” mô nà. Thôi, dẹp! Mà răng em lên nhà xứ giờ ni mần chi cho nắng? Chờ túi đi đọc kinh ghé vô cũng được chơ lậy.
Hiền dơ cái giỏ lên cao, nói nho nhỏ:
- Mẹ mới đi Đà Lạt thăm anh Ngọc về, nói em đưa chục bơ lên biếu cha ăn lấy thảo.
Tôi mở giỏ ra xem, đếm thấy 12 quả bơ tròn trịa xinh xắn, nhìn thèm đến chảy cả nước miếng. Tôi trơ tráo:
- Còn thừa 2 trấy cho anh với Báu chi?
- Nỏ phải mô! Họ bán chục 12 mà.
- Chi lạ rứa? Một chục là một chục... Em cứ đưa biếu cha, còn 2 trấy ni anh cất dành nha.
- Lỡ may cha hỏi lại mẹ em thì mần răng? Túi ni anh về nhà với Báu đi, mẹ cũng có quà cho anh. Mẹ thương hai anh lắm mà, lo chi.
- Em cứ để anh cất 2 trấy ni cho chắc ăn... Lỡ may mẹ em cho thứ khác chớ không phải bơ thì tiếc lắm. Anh lấy nha?
- Dạ!
Tôi thò tay vô giỏ lấy 2 trái bơ chạy vào dấu trong góc tủ rồi trở ra ngồi chơi với Hiền bên hông nhà thờ. Hai đứa cứ im lặng “ngồi nhìn về một hướng” vì từ lúc làm Hiền đỏ mặt khi nắm tay kéo nàng “chạy trốn” tôi cứ thấy ngường ngượng không dám nhìn Hiền như trước. Hiền cũng e thẹn cứ ngồi vân vê cái quai giỏ... Tôi sợ Hiền giận nên lên tiếng trước:
- Hiền nầy.
- Dạ!
- Rứa mẹ dặn không được chơi với con trai nữa à?
- Dạ!
- Anh thì răng?
- Dạ!
- Chi mà dạ mãi rứa? Mẹ có nói không được chơi với anh nữa không?
- Dạ... Mẹ nỏ nói chi cả nhưng mà em sợ!
- Sợ chi?
- Để anh đi tu...!
- Rứa à? Anh chỉ mới đi học chủng viện thôi mà. Khi mô đậu tú tài xong mới tính...
- Dạ!
- Mà em có thích chơi với anh nữa không?
- Dạ thích... nhưng mà sợ!
- Rứa em có sợ mấy đứa con trai khác không?
- Dạ không!
- Răng rứa? Quân nớ thì không sợ mà lại sợ anh à?
- Dạ!
- Đừng dạ nữa được không Hiền? Em cứ nói chuyện bình thường như ngay tê không được à?
- Dạ... Khi mô anh về lại chủng viện?
- Răng hỏi lạ rứa? Thì khi mô anh Báu nhà em đi thì anh cũng đi... Bốn tuần nữa.
- Chắc là kịp.
- Kịp chi?
- Bí mật mà! Em sẽ đưa cho anh trước khi đi. Mà anh đừng chê đó nha.
Tôi định bắt bí Hiền để hỏi xem nàng đang âm mưu chuyện gì, nhưng chưa kịp lên tiếng thì nghe cha Trọng gọi:
- Duy. Quân tê đi mô hết rồi? Kêu chắc về đánh bột mà đúc bánh lễ đi không chiều trời mưa đó... Mà hai đứa bây răng lại ngồi ngoài nớ?
Tôi hoàn hồn, dạ một tiếng thật to, quay sang dục Hiền mang quà vào biếu cha rồi “ba chân bốn cẳng” chạy ra phía sau nhà xứ. Thoát nạn!
* * *
Một buổi tối trước ngày tựu trường, Hiền sang nhà xứ tìm tôi sau giờ đọc kinh tối:
- Anh Duy... Em mới học đan... anh đừng chê nha. Em nghe Báu nói trên chủng viện cuối năm lạnh lắm nên em đan tặng anh cái khăn quàng cổ cho ấm.
Nàng dúi vội vào tay tôi một gói nhỏ rồi quay gót “đi như chạy” vì sợ có người nhìn thấy!
Tôi trở về chủng viện mà thỉnh thoảng cứ tưởng nhớ bâng khuâng... Buồn! Tháng 12 về, rừng cây cao su rụng lá. Trời trở lạnh. Tôi mở “valise” lấy chiếc khăn quàng cổ mầu trắng vẫn còn thoang thoảng mùi thơm của Hiền, định quấn vào cổ cho đỡ lạnh nhưng sợ bạn bè trêu ghẹo nên lại gấp vào... chờ ban đêm lấy ra để bên gối cho lòng chợt thấy bâng khuâng một niềm nhớ không tên!
Nguyễn Duy-An
|