MeMaria.org
Radio Giờ Của Mẹ - Giờ Bình An - Giờ Tin Yêu - Giờ Hy Vọng
(714) 265-1512. Email: Kim Hà
banner
Google Search
memaria www  

Local Search
PayPal - The safer, easier way to pay online!
top menu :: mẹ maria :: đức mẹ việt nam :: đức mẹ trà kiệu
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
  
Cây Ða Chùa Viên Giác Của Trần Trung Ðạo Tâm Bút Cùng Trà Kiệu
Thứ Hai, Ngày 17 tháng 11-2008
VietCatholic News 
CÂY ÐA CHÙA VIÊN GIÁC CỦA TRẦN TRUNG ÐẠO TÂM BÚT CÙNG TRÀ KIỆU

Nhiều nhà văn hóa thường tìm cách chứng minh rằng dân mình cũng có nhiều đỉnh cao để gầy dựng lòng kiêu hãnh mà tiến lên. Ðiều này thật cần thiết, nhưng lại rất dễ tạo thêm chia rẽ xa cách vì không đồng thuận. Đôi khi còn nguy hiểm vì đó chỉ là một “cái diện” khiêu khích tự ái dân tộc để mưu đồ một “cái điểm” nhằm mục tiêu riêng cho tham vọng quyền lợi của phe phái. Nhiều khi lại chỉ là một cách phóng rọi con ma đen tham sân si ẩn ức bên trong ra bằng những danh nghĩa cao đẹp! Chẳng vậy mà ta thấy xảy ra nhan nhản trên tin tức hằng ngày những vụ bạo động khủng bố, xô xát tiêu diệt nhau, cũng nhân danh tôn giáo và văn hóa cả đấy chứ.

Người Do Thái thì lại có một đường lối hun đúc ý thức dân tộc rất khác lạ. Họ bắt đầu bằng việc dám đối diện với những niềm đau chung, những nỗi nhục chung, dám đối diện với những mặc cảm của dân tộc mình, chứ không tìm cách chôn vùi quên đi. Ðiều này rất đúng với qui trình của khoa tâm lý trị liệu ngày nay để lấy lại tinh thần, và cũng từ đó tạo được độ rung chung.

NHẶT MẢNH ÐỜI RƠI RỚT Ở ÐÂU ÐÂY

Nhìn như vậy, tôi thấy qua những bài thơ và văn của Trần Trung Ðạo, một sợi chỉ xuyên suốt nối kết toàn những nỗi đau riêng cũng như chung, thực trạng đầy máu và nước mắt của một Việt Nam bầm dập, bị tan hoang phá sản tinh thần trong mọi phương diện. Trần Trung Đạo thao thức đi tìm cho ra câu trả lời: “Câu hỏi lớn nhất là tại sao đất nước tôi lại phải chịu đựng nhiều chết chóc khổ đau như thế. Tôi cũng không mơ ước gì to lớn, cao xa... Giấc mơ của tôi vô cùng gần gũi và đơn giản, rằng máu Việt Nam đừng chảy nữa trên quê hương tôi đã qua nhiều thống khổ.” (Giấc Mơ Việt Nam, trang 144)

Có ai cùng quằn quại gióng lên tiếng kêu oan ức thảm khốc này không? Có ai cùng đi tìm cho ra một giải pháp không? Thế hệ của cuộc chiến đang tàn đi với tuổi đời. Việt Nam không thể để cho bị cụt đường quẩn hướng, nhưng phải mở lối cho thế hệ trẻ tiếp nối để dòng sinh mệnh dân tộc có thể chảy tới.

“Thế hệ chúng tôi lớn lên sau hiệp định Geneve. Chúng tôi bước vào đời như những khán giả bước vào rạp hát khi vở thảm kịch Việt Nam đã mở màn từ nhiều năm trước. Chúng tôi sờ soạng trong bóng đêm dày đặc để tìm một chỗ đứng, tìm một hướng đi, tìm một câu trả lời cho những cảnh máu đổ đầu rơi đang diễn ra trên sân khấu. Không có tiếng trả lời. Chung quanh chúng tôi chỉ có tiếng súng nổ vang và thây người đổ xuống. Chung quanh chúng tôi chỉ có máu và nước mắt. Chúng tôi mò mẫm đi tìm cội nguồn dân tộc trong điêu tàn đổ nát của quê hương như những đứa con lạc mẹ. Chúng tôi gõ cửa mọi căn nhà, hỏi thăm từng thầy dạy học, kính viếng các Cha, đảnh lễ các Thầy. Nhưng tại mỗi nơi, mỗi người, dân tộc mang một vóc dáng khác nhau, một định nghĩa khác nhau và được hiểu một cách khác nhau. Chúng tôi có cảm tưởng dân tộc của Cha không phải là dân tộc của Thầy, dân tộc của những người sống nhờ vào chiến tranh không phải là dân tộc của người đang chịu đựng chiến tranh.” (TTÐ, Nửa Thế Kỷ, Một Dòng Sông)

Quả thực có ai đọc Trần Trung Ðạo mà lòng mình chẳng rung động, chẳng cảm thấy gần gũi dễ xích lại với nhau hơn? Rung cảm đó trải dài trong hai tập thơ Ðổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười, Thao Thức và tác phẩm Giấc Mơ Việt Nam, là tập hợp “một số bài viết nhiều thuộc nhiều thể loại, đôi bài tham luận, dăm bài tâm bút, vài câu chuyện ngắn, về những vui buồn, đời và đạo, niềm đau riêng và nỗi lo chung.”

Ðọc “Nhật Ký Ngày Giỗ Cha” tôi chảy nước mắt, và cảm thấy mắc nợ với Trần Trung Ðạo nhiều quá, vì anh đã khơi lên được trong tôi “trang nhật ký rất riêng tư” với những nỗi đau thầm kín mà xưa nay chưa sao diễn tả được. Ðọc như đọc chính truyện đời mình. Câu truyện của một người mà như điển hình cho hằng bao nhiêu triệu người khác, cho cả một dân tộc khổ đau, đầy nỗi oan ức, đầy hệ lụy! Người khác hành hạ mình và mình tự đầy đọa nhau. Ở sân chùa hay ở sân nhà thờ thì cũng một nỗi nhức nhối như nhau!

Sân chùa xưa lá rụng đã bao lần

Chiếc lá vàng như những vết dao đâm

Thời thơ ấu nghe vẫn còn đau buốt”

(Chút quà cho quê hương)

Mỗi buổi sáng tôi một mình ôm chổi

Quét lá vàng như quét nỗi cô đơn

Lá vẫn rụng khi mỗi mùa thu tới

Như đời tôi tiếp nối chuyện đau buồn...

Tôi sẽ đến ngôi chùa xưa Viên Giác

Nhặt mảnh đời rơi rớt ở đâu đây.

(Nhớ Cây Ða Chùa Viên Giác)


Nhiều vết thương vẫn còn rói tươi, bầm tím. Nhiều vết đã mưng mủ, nhức nhối. Càng tìm cách che đi để cố làm cho mình ra vẻ cũng “ngon lành” như ai thì càng làm cho cơn bệnh mặc cảm sần sượng thêm, biến thành tật ăn sâu vào máu. Càng chối bỏ hay chỉ tay đổ tội thì căn bệnh càng trầm kha!

Trong bài viết “Vu Lan, Nghĩ về Mẹ và Quê Hương”, Trần Trung Ðạo đã dám nhìn thẳng vào vết thương vẫn còn mưng mủ rất hiện thực nơi trái tim Việt Nam: “Ai cũng có một cuộc đời để sống. Nỗi bất hạnh nào rồi cũng nguôi ngoai. Vết thương nào cũng lành đi với thời gian. Tuy nhiên có một nỗi bất hạnh sau bao nhiêu năm dài vẫn còn, đó là bất hạnh của dân tộc Việt Nam.”

BỨC TƯỜNG KHÓC DO THÁI

Jean Lartéguy đã viết cả một cuốn sách dầy về Bức Tường Thành Do Thái, những bí mật của quân đội bí mật nhất thế giới. Người ta nói nhiều về những bí mật khác nhau đã tạo nên sức mạnh kỳ lạ cho dân tộc Do Thái. Nhưng cái bí mật bí mật nhất, lạ thay và mâu thuẩn thay, lại nằm ở ngay một bức tường đổ vỡ mà người Do Thái vẫn gọi là Bức Tường Khóc. Ðó là tàn tích của đền thờ Giêrusalem huy hoàng xưa kia bị tướng Titô của đoàn quân viễn chinh Roma phá tan tành "không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào" vào năm 70. Và từ đó người Do Thái bị phát lưu đi khắp thế giới, sống lang thang tủi nhục vô tổ quốc...

Bức tường khóc như vậy quả là một cơn ác mộng đáng phải được quên đi mới đúng, vì nó là dấu tích của sự nhục nhằn. Ấy thế mà qua bao nhiêu thế hệ, người Do Thái từ khắp thế giới vẫn tìm về bức tường này, để nhìn rõ mặt mình chứ không trốn chạy, chứ không tiếp tục khoe mẽ huyênh hoang về văn hiến dân tộc kiêu hùng! Và để cùng khóc với nhau. Và vì cùng đau với nhau, nên mới biết thương nhau, lau vết máu cho nhau, đùm bọc nhau. Không ngờ mà người Do Thái lại chứng minh câu nói Việt là đúng: đồng bệnh tương lân.

Bức Tường này được chiếm lại trong trận chiến 6 ngày vào năm 1967. Sư đoàn Dù đã không dám dùng bom đạn sợ bức tường thiêng liêng này bị tàn phá, nên họ đã cận chiến tổn thất nặng nề mới đạt được. Ðoàn quân đã nhào tới hôn bức tường, và lớn tiếng hò vang: ”Năm nay chúng ta về lại Giêruslem” sau gần hai ngàn năm lang bạt.

Kể từ đó, những người lính Dù, đoàn quân tinh nhuệ nhất của Do Thái, sau mỗi khóa huấn luyện, đều phải đến làm lễ tuyên thệ trước Bức Tường Khóc. Trước hết, họ phải đi bộ 40 cây số, khởi hành từ rạng đông mãi tới tối mới đến được bức tường này. Họ chưa có quyền mang vũ khí và chỉ mang một túi đeo lưng với trang bị cá nhân, vì họ chưa phải là hiệp sĩ thần thánh dính liền với lễ nghi tuyên thệ. Trong nghi lễ, vị chỉ huy nói bằng một giọng sắt thép: ”Các bạn lại sắp biết thế nào là sợ hãi, là khổ đau, là máu, là nước mắt. Chúng ta đừng có ảo vọng. Chiến tranh lại đến với chúng ta, và một lần nữa chúng ta phải thắng để khỏi bị tiêu diệt. Vì thế đây là những điều tôi cầu chúc anh em: một công cuộc huấn luyện cực kỳ khó nhọc, gay go. Tôi chúc các bạn đổ mồ hôi, chịu đói khát và nhọc mệt.” (Jean Lartéguy, Bức Tường Thành Do Thái, trang 273)

BỨC TƯỜNG KHÓC VIỆT NAM

Tháng giêng năm 2000 tôi có dịp về tận đền Hát Môn để đứng tê tái lặng nghe lịch sử khóc nỗi oan nghiệt của dòng tộc mình. Bức Tường Khóc Việt Nam là đây. Câu hát trong trường ca Mẹ Việt Nam của nhạc sĩ Phạm Duy đang vang vọng đâu đây bật lên từ tiềm thức cộng thông của cả một dân tộc. Nỗi oan dằng dặc suốt chiều dài và chiều dày của lịch sử từ cái ngày Hai Bà Trưng trầm mình trong dòng sông Hát; rồi Mã Viện đã bẻ gẫy và chôn đi biểu tượng tinh thần của một lớp dân mà ông ta miệt thị là “Nam Man” (dân Mọi phương Nam) với câu trù yểm: Ðồng trụ chiết, Giao chỉ diệt! Sau đó là một ngàn năm trầm luân mất mặt.

Nhớ xưa, nhớ Mẹ, nhớ Mẹ xưa,

Mẹ xuống sông rửa nhục anh hùng.

Mẹ trôi trên dòng sông Hát,

Nước ngược xuôi đưa Mẹ đi muôn nơi.

Nhớ chăng, nhớ Mẹ, nhớ Mẹ chăng?

Chôn đáy sông mối hận yêu chồng...

Chàng Trương có buồn thương, khóc...

Rước Mẹ lên, nước thiêng sẽ giải oan.


Ðể gầy dựng tinh thần, người Do Thái đã làm lễ nghi tuyên thệ tại Bức Tường Khóc, tại đồi Massada nơi cha ông họ đã tử thủ và thà chết tập thể chứ không chịu đầu hàng. Chỉ khi biết cùng khóc với nhau, cùng nhục với nhau, người dân một nước mới thực quyết tâm nắm tay nhau mà cùng cố ngóc đầu lên. Mong rằng một ngày nào đó người dân Việt cũng sẽ biến Ðền Hát Môn thành nơi tuyên thệ như vậy mà phục sinh hồn Việt thay vì những phóng chiếu mặc cảm khác. Ðã đến lúc người mình cùng trở về Ðền Hát Môn mà thương lịch sử khổ đau, thương một lớp dân bất hạnh và cùng tìm câu trả lời, như Nguyễn Thùy và Trần Minh Xuân trong Tinh Thần Việt Nam:

Hỡi lịch sử ta thương mình quá đỗi

Ta thương mình bởi chính nỗi ta đau.


BƯỚC ÐẦU MỘT CUỘC CHỮA BỆNH

Có một điều ít người dám nói tới, là hình như tộc Việt mình bị một chứng bệnh di truyền rất nguy hiểm. Ðó là bệnh oan thành bệnh ức và mặc cảm, một trạng thái tâm lý không mấy lành mạnh. Cái số mệnh của mình trong suốt lịch sử chẳng được mấy ngày an bình và phát đạt, thành ra cái nét văn hóa căn bản vẫn là cái bản năng cố mà sống còn. Suốt một ngàn năm đằng đẵng qua quá nhiều đời bị nô lệ Tàu nên vết thương và nỗi đau hằn sâu vào máu như một di sản, mang mặc cảm thấp cổ bé miệng nên luôn phải cố ráng mà bù vào một cái gì cho đỡ tủi. Theo khoa trị liệu tâm lý ngày nay, vết thương này nếu không được chữa lành sẽ tiếp tục quằn quại giẫy giụa hoặc phải tìm cách gỡ gạc bù trừ, làm thành những hệ lụy tâm lý khủng khiếp mà ta vẫn gọi là vòng hệ lụy nghiệt ngã.

Ngày xưa còn bé, đọc “Ngựa Chứng Sân Trường” hay “Vết Thù Hằn Trên Lưng Ngựa Hoang” của Duyên Anh, tôi đã học bài học nhập môn về tâm lý qua hiện tượng giẫy giụa khi bị thương. Hình ảnh một con ngựa bị đâm nhiều nhát máu me lai láng. Nó chạy tứ tung mà chẳng biết chạy đâu, vùng vằng hung hãn cắn cấu làm người khác bị thương theo. Người khác bị thương lại giẫy giụa la hét làm người khác nữa bị thương. Và cứ thế thành cái vòng hệ lụy nghiệt ngã đầy khổ nạn. Cả một lớp người bị thương bầm dập lại chỉ còn biết tìm cách cắn cấu đổ tội cho nhau mà quên mất cái nguyên nhân chính. Rồi cuối cùng con ngựa cũng lăn ra chết. Nó nằm vật xuống bên vực núi, nét mặt trở nên hồn nhiên hiền từ như ngày nó vào đời, chỉ trừ mấy giọt nước mắt còn đọng lại chưa kịp khô. Thật tội nghiệp.

Ðọc lịch sử ai mà chẳng thấy ngay cả những thời cực thịnh như nhà Lý, Trần, Lê... cũng chỉ được mấy năm đầu của mỗi triều đại tạm gọi là yên ổn. Mình loay hoay mãi mà vẫn chưa tìm ra đường xây dựng được một hệ tư tưởng riêng hay một công trình gì to lớn, vì cơn bệnh trầm kha vẫn còn hằn đó, nên đành “gà què ăn quẩn cối xay” giành giật một chút quyền lực và cái lợi nhỏ nhoi! “Ðá đáp người ngoài” không nổi thì đi “cứ hoài đá nhau” vậy. Chẳng lạ gì ngay đến đời con cháu của những triều đại có công lập lại cơ đồ thì đã phát sinh nhiều tai biến do chính người mình tạo ra cho nhau. Có cái gì bất ổn như một chứng bệnh tâm lý. Nhà Trần diệt nhà Lý. Con cháu Lê Lợi đưa công thần Nguyễn Trãi ra mà giết tới ba đời thật tàn ác! Rồi Trịnh Nguyễn gianh đất giành dân làm ra được sông Gianh! Cũng nhằm xây cơ đồ nhà mình chứ chắc gì vì dân vì nước! Đưa mấy cái đầu lâu của anh em nhà Tây Sơn ra mà trả thù kiểu đó liệu có chút nhân bản? Ðặng Trần Thường đánh chết bạn học là Ngô Thời Nhiệm ngay tại Văn Miếu. Phe hoàng tử Ðảm thiên Tàu diệt phe anh là hoàng tử Cảnh thiên Tây phương, rồi nhân danh văn hóa mà bít cửa với văn minh mới để đi thụt lùi thành cái hệ lụy đầy tủi nhục và nước mắt vẫn còn chảy tới ngày nay!

Vì thế, dám đối diện với bóng đen đau buồn và cùng cảm được nỗi nhục chung phải là bước đầu tiên chữa bệnh tâm lý như William A. Miller viết trong “Make Friends with Your Shadow” (Hãy Làm Bạn Với Bóng Đen Của Mình) theo khuynh hướng tâm lý phân tích của Karl Jung. Bao lâu còn đứng chỉ tay đổ tội trút rách nhiệm thì cơn bệnh còn nặng thêm!

Quả thật, cuộc chữa bệnh cho chính mình và dân mình để hồi sinh phải bắt đầu bằng trái tim biết cảm thương cái đau của nhau và cái nhục chung. Sau một cuộc chiến chẳng có ai là kẻ thắng, mà cả dân tộc là những người thua, Trần Trung Ðạo cảm thương anh thương binh miền Bắc trên đôi nạng gỗ bên vỉa hè cuộc sống cũng như người lính già miền Nam chết bên lề xa lộ San Jose! Chừng nào cảm thấy được người con gái vượt biên tên là Thu Cúc thắt cổ chết trong trại cấm, những thiếu nữ bị bán đi làm vợ bên Tàu hoặc những bé gái bị bắt làm điếm bên Thái, hay ngay cả những người trẻ ở hải ngoại phải mặc cảm che giấu gốc gác hèn yếu của mình... là chính em gái của mình, là con hay cháu gái của mình, thì đời mình từ đây chắc sẽ không thể “bằng chân như vại” như vậy được nữa! Ðây chả lẽ không phải là niềm đau và nỗi nhục chung sao? Ðây không phải là những Bức Tường Khóc Việt Nam hôm nay hay sao?

“...Anh bước đi giữa trời đất Bắc

Hà nội mưa phùn lạnh kẽ xương

Chiếc nạng gỗ khua từng tiếng nấc

Gõ nhịp thương đau xuống mặt đường...”

“...Người lính già Việt Nam

Như con thú hoang lạc loài

Trên freeway nhộn nhịp

Một tiếng rên thảng thốt chảy trong mưa

Một chiếc lá cuốn đi theo cơn gió cuối mùa

Một tiếng nấc rã rời trong đêm vắng

Vợ anh đâu?

Sao không về đây vuốt mắt

Con anh đâu?

Sao không đến vấn khăn tang...”

“...Vĩnh biệt em người con yêu xứ Huế

Ngủ đi em đừng óan hận cuộc đời

Anh đứng lặng nghe đau từ tim phế

Xin thơ nầy lau vết máu em rơi.”

(Vĩnh biệt em, Thu Cúc )

“Người con gái Việt Nam trên đại lộ Sri Ayuthaya

Ðang nhắm mắt nhìn đời trôi vô tận

Lịch sử Việt Nam vinh nhục thăng trầm bao nhiêu bận

Nhưng chưa bao giờ đen tối hơn hôm nay....”

”Em xứ lạ cuộc đời nhiều thay đổi

Tóc nhuộm vàng che những vết thương đau...”


TÂM BÚT CÙNG TRÀ KIỆU

Đồng bệnh tương lân. Một Phật tử dưới bóng cây đa chùa Viên Giác mang nặng vết thương đời đi tâm sự cùng người theo đạo Chúa hằn sâu vết máu.

Trần Trung Ðạo đã kết “Trang Nhật Ký Ngày Giỗ Cha” bằng một tình cảm chân thực: “Những con sông Gianh trong lòng người phải cần được lấp lại. Lấp lại bằng cảm thông chứ không phải bằng những bãi xương khô, những cánh đồng nhuộm máu. Người Việt Nam cần được nghe tiếng chuông chùa nhẹ đưa, tương tự như cũng cần được nghe tiếng chuông nhà thờ thánh thoát. Hãy trao cho các thế hệ tương lai Việt Nam một cơ hội để được sống trong hòa thuận, bao dung, tha thứ. Tại sao phải mang theo một gánh nặng của phân hóa, rẽ chia, hoài nghi, mặc cảm, trong lúc dân tộc Việt Nam đang cần một đôi cánh để bay cao, để vượt qua ao hồ quá khứ, để mong đuổi kịp nhân loại, đã nhiều thế kỷ, tiến xa về phía trước?”

“Ðể tôi nối hai bờ sông Bến Hải

Nối lòng người vời vợi cách xa nhau”...

(Giấc mơ nhỏ của tôi )


Ðức Phật đã ví Ðạo như ngón tay chỉ mặt trăng, như cái bè chở người qua sông. Mình cũng có thể ví Ðạo như cái phao vớt người đang đắm tàu. Phao bằng gỗ hay bằng nhựa, phao Ấn Ðộ hay phao Do Thái, phao "nhập cảng" hay phao "dân tộc"? Điều quan trọng vẫn là phao có thể vớt được người, mà cụ thể là những người Việt mình đang chết đuối. Trong bối cảnh thực của Việt Nam, tôn giáo phải là những cái phao này, chung sức nhau mà cứu.

Trần Trung Ðạo thuộc làng Phật giáo Mã Châu sát cạnh làng Công giáo Trà Kiệu, hồi còn nhỏ vẫn thường sang chơi với bạn bè ở sân nhà thờ. Nhưng anh cũng phải nhận rằng không phải ai cũng dễ đến được với nhau như thế. Nhiều người, dù cùng là dân xứ Quảng với nhau, nhưng vẫn mang nhiều thành kiến. “Sự xa cách đó không phải tự nhiên mà có, cũng không phải chỉ đơn giản là sự cách biệt lương giáo chung chung mà thôi, nhưng những chia rẽ giữa những người đã chôn khúc nhau trên cùng mảnh đất, bắt đầu bằng máu, đổ xuống trong đêm 1 tháng 9 năm 1885 và chảy dài suốt thời kỳ thực dân đầy thù hận, khổ đau, tang tóc.”

“Nhắc lại những điều đáng ca ngợi hay nêu lên đôi điều đáng trách đó, tôi không có ý định đào sâu những vết thương đã một thời lở lói trong lòng dân tộc. Nhưng để chúng ta cùng nhìn về quá khứ một cách khách quan, chân thành, bao dung và trân trọng, để từ đó biết tránh xa những ổ gà, những hầm hố, những vết xe đổ, trên đường đi tới một tương lai tươi sáng cho đời sau...”

“Tôi chỉ mong có một ngày những người dân Quảng sẽ cùng về lại Trà Kiệu, cùng nhau lau sạch những bậc đá trên đồi Bữu Châu như lau đi những vết thương hằn sâu nhiều thế kỷ. Tôi vẫn mơ có một ngày cùng nhau xây lại đình làng Ngũ Xã Hoàng Châu và các làng mạc chung quanh Trà Kiệu, nơi đã từng là bãi chiến trường, là biên giới của phân ly, hoài nghi, xa cách. Trà Kiệu, Mã Châu, Thi Lai, Hà Mật, Kỳ Lam, Giao Thủy, Ðà Nẵng, Hội An.... là những phần thân thể đáng yêu và bất khả phân ly của xứ Quảng. Tôi yêu Trà Kiệu như yêu chính ngôi làng Mã Châu nhỏ bé của tôi.”


LỄ GIẢI OAN: LỜI THỀ GÓP PHẦN KHƠI DÒNG SINH MỆNH

Tôi đã từng nghe truyện kể về một vị thiền sư ngồi yên lặng chín năm nhìn vào vách đá. Câu chuyện vỏn vẹn chỉ có thế, vậy mà biết bao nhiêu sách vở vẫn không sao giải thích thỏa đáng.

Họa sĩ Malevitch hình như đã diễn tả được phần nào qua bức “Khung Vuông Trắng Trên Nền Trắng.” Bức họa này hiện đang để trong Bảo Tàng Viện Nghệ Thuật Tân Thời MOMA ở New York. Nhiều khoảng cách tựu trung cũng chỉ là một khoảng cách: khoảng cách giữa khung trắng và nền trắng, giữa những vết dao đâm và cõi lành phía đàng sau kia, giữa chỗ ngồi vô thường và quê hương hằng thể. Quê hương ở đàng sau “vách đá”, là khoảng trống đầy tràn, là khung trời vời vợi.

À đây rồi, điều mình tìm kiếm từ lâu thì đang hiện ra, trên khoảng trống mênh mông, trong một cõi tâm mang tình cảm chân thực biết cảm thương và nối kết, hơn tất cả những cuộc phê phán hay tranh luận vô bổ. Chân không diệu hữu là vậy. Khi lòng mình đã vượt qua được tham sân si thì tình thân thương gặp gỡ mới có cơ phát triển. Trong “chu kỳ sinh, trụ, dị, diệt của nhân sinh tạo vật, “ Trần Trung Ðạo chỉ “xin được làm một que củi nhỏ để ngọn lửa hy vọng, tình người, tình đất nước, trong lòng mỗi người chúng ta, đừng tắt.”

Ðúng vậy. Chỉ có trái tim tinh ròng biết thương cảm mới vượt qua được những khoảng cách mà nối vào được với thiên thu tròn đầy. Đúng đây là khởi đầu cho tiến trình tâm lý trị liệu giải thoát để Việt Nam được chữa lành. Cần phải biến thành nghi lễ hẳn hòi. Ðây cũng là nhiệm vụ của tôn giáo và của những nhà nghệ sĩ đích thực, như họa sĩ Thái Tuấn quan niệm: “Công việc làm nghệ thuật là thu tất cả về một mối... cái xác cái hồn, cái cũ cái mới, cái quốc tế cái dân tộc. Trong công việc sáng tạo, người nghệ sĩ không làm gì khác hơn, mới lạ hơn là nhờ tác phẩm để hàn gắn lại cuộc đời đã quá tả tơi rách nát bởi những phân chia. Hắn phải vượt khỏi những khoảng cách, mới có thể xóa bỏ những khoảng cách. Khoảng cách giữa nghệ thuật và kỹ thuật, giữa con người và thiên nhiên; giữa con người và con người, tư bản cộng sản, da trắng da đen, công giáo phật giáo, trí óc trái tim.” (Tuyển Tập Tranh và Tiểu Luận, trang 26-27).

Muốn vượt qua được những khoảng cách do những cực đoan quá khích, do tham vọng nhỏ nhoi bệnh hoạn, phải cần đến cái tâm nhân ái, bao dung, trung đạo, nhận ra được nét đẹp và cần thiết của những chiếc phao khác, của những đạo khác. Như vậy, công cuộc phục hưng tộc Việt cũng phải bắt đầu từ việc giải oan cho chính lòng mình, giải thoát được những khoảng cách và uẩn khúc ở ngay trong trái tim mình.

Trần Trung Ðạo đã vượt qua nhiều khoảng cách, để biết đau, biết nhục, biết thương, mà đến được một thứ đạo tinh ròng: “Ðối với tôi, tôn giáo nào đem lại sự an lạc, hạnh phúc cho con người thì tôn giáo đó là tôn giáo của tôi và bất cứ ai đeo đuổi mục tiêu đem lại an lạc, tự do, cơm áo cho đồng bào tôi người đó là Thầy tôi, là Cha tôi.” (TTÐ, Giấc Mơ Việt Nam, trang 144)

Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt? Lời yểm của Mã Viện chả lẽ cứ mãi ám ảnh một lớp người bất hạnh mang quá nhiều thương tích tật nguyền trong một dạng thức tâm lý không mấy bình thường? Thì đây, mắt mình rưng rưng nhìn thấy một dòng sông tình thương chảy đến từ những con tim nhân ái, biết đau, biết nhục với vận nước... và biết làm một cái gì cho dân mình có thể ngóc đầu lên dù phải hy sinh rất nhiều, như một lời thề trước Ðền Hát Môn. Số mệnh bao giờ cũng đi liền với một sứ mệnh và một sử mệnh. Ðó chính là lời thề của mỗi người góp phần khơi cho dòng sinh mệnh dân tộc chảy tới:

Trụ đồng gẫy, núi Giao Chỉ vẫn còn cao

Ngọn Cẩm Khê vẫn đầy, dòng sông Hát vẫn chảy.


Lm. Trần Cao Tường
Print In trang | sendtofriend Email | back Trở về
  
Tin/Bài mới
Ðôi Nét Về Giáo Xứ Trà Kiệu ( Phần Tóm Lược ) (6/6/2009)
Ðền Bửu Châu, Đức Mẹ Trà Kiệu, Trung Tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu (6/6/2009)
Từ Trung Tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu Tới Trung Tâm Thánh Mẫu Gành Ráng Qui Nhơn (6/6/2009)
Về Bên Đức Mẹ Trà Kiệu (6/6/2009)
Tôi Ðã Thấy Trà Kiệu (4/4/2009)
Tin/Bài cùng ngày
Giới Thiệu Trung Tâm Thánh Mẫu Đức Mẹ Trà Kiệu (11/17/2008)
Tin/Bài khác
Đức Mẹ Trà Kiệu (6/23/2008)
Trà Kiệu Trong Tôi (6/23/2008)
Trà Kiệu Qua Tâm Bút Trần Trung Ðạo (6/23/2008)
Giai Thoại Ðức Mẹ Trà Kiệu (6/23/2008)
Trà Kiệu (6/23/2008)
MeMaria.org -- Từ 15/4/1999 lần truy cập -- Kim Hà [Valid RSS]
Copyright © 2011 www.memaria.org. All Rights Reserved. Powered by VNVN System Inc.
Best view with IE 7.0, Fire Fox, resolution 1024x768