HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN A
Is 25,6-10a ; Pl 4,12-14.19-20 ; Mt 22,1-14
Y
PHỤC DỰ TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI LÀ LÒNG
SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG
I.
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG:
Mt 22,1-14
(1) Đức
Giê-su lại dùng dụ ngôn mà nói với
họ rằng: (2) “Nước Trời cũng
giống như chuyện một vua kia mở tiệc
cưới cho con mình. (3) Nhà vua sai đầy
tớ đi thỉnh các quan khách đã
được mời trước, xin họ
đến dự tiệc cưới, nhưng
họ không chịu đến. (4) Nhà vua lại sai
những đầy tớ khác đi, và
dặn họ: “Hãy thưa với quan khách
đã được mời rằng:
“Này cỗ bàn, ta đã dọn xong. Bò
tơ và thú béo đã hạ rồi.
Mọi sự đã sẵn. Mơi quý
vị đến dự tiệc cưới !” (5) Nhưng
quan khách không thèm đếm xỉa tới,
lại bỏ đi: Kẻ thì đi thăm trại,
người thi đi buôn. (6) Còn những kẻ
khác lại bắt các đầy tớ
của vua mà sỉ nhục và giết chết. (7)
Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân
đi tru diệt bọn sát nhân ấy, và thiêu
hủy thành phố của chúng. (8) Rồi nhà vua
bảo đầy tớ: “Tiệc cưới
đã sẵn sàng rồi, mà những
kẻ đã được mời lại không
xứng đáng. (9) Vậy các ngươi
đi ra các ngả đường, gặp ai
cũng mời hết vào tiệc cưới.
(10) Đầy tớ liền đi ra các nẻo
đường, gặp ai, bất luận xấu
tốt, cũng tập hợp cả lại, nên
phòng tiệc cưới đã đầy
thực khách. (11) Bấy giờ nhà vua
tiến vào quan sát thực khách dự
tiệc, thấy ở đó có một
người không mặc y phục tiệc
cưới (12) mới hỏi người
ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây
mà lại không có y phục lễ cưới ?”
Người ấy câm miệng không nói được
gì. (13) Bấy giờ, nhà vua bảo
những người phục dịch: “Trói chân
tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên
ngoài, ở đó người ta sẽ
phải khóc lóc nghiến răng ! (14) Vì kẻ
được gọi thì nhiều, mà
người được chọn thì ít”.
2.
Ý CHÍNH: DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI
Đức
Giê-su trình bày dụ ngôn tiệc cưới,
ám chỉ lịch sử ơn cứu
độ của Thiên Chúa qua hai giai đoạn
chính như sau: Đầu tiên Thiên Chúa tuyển
chọn và mời gọi dân riêng Ít-ra-en gia
nhập vào Nước Trời do Đấng Thiên
Sai thiết lập, nhưng họ đã từ
chối tình thương cứu độ của
Người. Tiếp đến, Thiên Chúa
mời gọi tất cả các dân tộc gia
nhập Nước Trời. Tuy nhiên muốn
được tham dự vào bàn tiệc
Nước Trời đời sau, đòi
người ta phải mặc y phục lễ
cưới, tức là phải có “lòng
ăn năn sám hối và tin vào Tin
mừng” do Chúa Giê-su rao giảng. Ai cố tình
không mặc y phục lễ cưới sẽ không
được vào dự tiệc
Nước Trời.
3.
CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Nước Trời
giống như chuyện một vua kia mở tiệc
cưới cho con mình: Thiên Chúa khai mở bữa
tiệc thời Thiên Sai bằng việc cho Con
Một Người xuống thế làm
người (x. Mt 24,1-12; Kh 19,9). Tuy dụ ngôn về
tiệc cưới của hoàng tử, nhưng
lại đề cập nhiều đến thái
độ phải có của các khách
được mời đến tham dự. +
Nhà vua sai đầy tớ: Đầy
tớ ám chỉ các ngôn sứ (x. ls 25,6). +
Đi thỉnh các quan khách đã
được mời trước: Quan
khách ám chỉ dân Ít-ra-en được
Thiên Chúa ưu tuyển. + Nhưng họ không chịu
đến: Các đầu mục đã
hướng dẫn dân Ít-ra-en khinh thường
lời mời của Thiên Chúa.
- C 4-6: + Nhà vua lại sai
những đầy tớ khác đi: Điều này cho
thấy lòng khoan dung của Thiên Chúa. Ngài luôn
kiên nhẫn trước thái độ bất trung
ngỗ nghịch của Ít-ra-en dân riêng của Ngài.
+
Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa
tới, lại bỏ đi: Họ không
đếm xỉa tới lời mời vì
không tin vào các ngôn sứ do Thiên Chúa sai
đến. + Kẻ thì đi thăm trại,
người thì đi buôn: Đi thăm
trại hay đi buôn bán là những lý do
biện minh cho hành động không đến tham
dự bữa tiệc cưới, cho thấy dân
ít-ra-en đã coi trọng của cải vật
chất và các việc trần gian hơn
lời hứa cừu độ của Thiên
Chúa. + Còn những kẻ khác lại
bắt các đầy tớ của vua mà
sỉ nhục và giết chết: Các
đầu mục đã xúi dân bắt
bớ giết hại các ngôn sứ là
những gia nhân do Thiên Chúa sai đến.
Điều này cho thấy tội bất trung của
họ đã lên đến tột cùng và
đáng bị trừng phạt.
- C 7-8: + Nhà vua liền nổi
cơn thịnh nộ:
Sự dửng dưng, từ chối và
còn giết hại các ngôn sứ thời
Cựu ước và các Tông đồ
thời Tân ước khiến cho Thiên Chúa
nổi cơn thịnh nộ. + Sai quân đi tru diệt bọn
sát nhân ấy: Sự cố chấp chống
lại tình thương cứu độ, khiến
dân Do Thái không còn xứng đáng
được hưởng sự khoan dung
nữa và đáng bị trừng phạt. +
Và thiêu hủy thành phố của chúng:
Việc thiêu hủy thành phố ám chỉ biến
cố thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy bình
địa vào năm 70 sau Công nguyên. Điều này
cho thấy Tin mừng Mát-thêu được
biên sọan vào sau năm 70, khi ấy tác giả
đã được chứng kiến cảnh
hoang tàn đổ nát của thành Giê-ru-sa-lem. + Những
kẻ đã được mời lại không
xứng đáng: Ơn cứu độ
đã được hứa ban cho dân
Ít-ra-en, nhưng họ lại không đáng
được hưởng do thái độ
dửng dưng và từ chối
Nước Trời do Đức Giê-su thiết
lập.
- C 9-10: + Vậy các ngươi
đi ra các ngả đường: Nhắc lại lệnh
của Đức Giê-su truyền cho các môn
đệ trước khi về trời: “Vậy
anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ” (Mt 28,19). Ra các ngả
đường còn nói lên tính phổ
quát của ơn cứu độ như
lời Đức Giê-su: “Từ phương
Đông phương Tây, nhiều người sẽ
đến dự tiệc cùng các tổ phụ
Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước
Trời. Nhưng con cái Nước Trời
thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên
ngòai, ở đó người ta sẽ phải
khóc lóc nghiến răng” (Mt 8,11-12). + Gặp ai bất
luận xấu tốt cũng tập hợp cả
lại: Câu này cho thấy ý của Thiên
Chúa là muốn cho tất cả mọi
người đều được vào
Nước Trời (x. Mt 9,13). + Phòng tiệc
cưới đã đầy thực khách:
Từ nay Hội thánh gồm đủ mọi dân
tộc và mọi thành phần tốt xấu trong
xã hội. Ở đây cũng nhắc lại
ý nghĩa của dụ ngôn Cỏ lùng (x. Mt
13,24-30) và Chiếc lưới (x. Mt 13,47-50).
- C 11-12: + Nhà vua tiến vào quan
sát khách dự tiệc: Sự quan sát ám
chỉ cuộc phán xét cuối cùng của
Đức Giê-su, Đấng được Thiên
Chúa tôn lên làm “Chúa” (x. Pl 2,6-11) và làm
“Vua” xét xử muôn dân (x. Mt 25,31-46). Tuy “Hội
thánh lữ hành” ở trần gian còn bao gồm
cả người tốt lẫn kẻ xấu,
nhưng “Hội thánh chiến thắng” trên
trời lại chỉ gồm những
người đã trải qua cuộc phán
xét chung. Khi ấy chỉ những người
có đức tin, thể hiện qua lối sống
khiêm tốn phục vụ mới được
tham dự bàn tiệc Nước Trời. +
Có một người không mặc y phục
lễ cưới: Trong Thánh Kinh không chỗ
nào đề cập đến tục lệ chủ
nhà sắm quần áo cưới cho quan
khách đến dự tiệc mặc
trước khi vào phòng tiệc nhưng chỉ
cần họ ăn mặc lịch sự là
đủ. Y phục lễ cưới ở đây
ám chỉ chiếc áo trắng chiến
thắng (x. Kh 7,9b), áo chính trực công minh
(x. Is 61,10) và công chính (x. Mt 5,16.20), tượng
trưng con người mới công chính
thánh thiện (x. Ep, 4,24), giống như Hiền thê
được trang điểm và
được mặc áo sáng chói tinh
tuyền đi đón Con Chiên (x. Kh 19,8). Tóm lại,
y phục lễ cưới chính là chiếc áo
trắng tinh khi chịu phép rửa tội. +
Người ấy câm miệng không nói
được gì: Người không
mặc y phục lễ cưới đã không
thể biện minh cho thái độ khinh
thường chủ tiệc của mình.
- C 13-14: + Trói chân tay nó lại,
quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: Đây là những
hình phạt tượng trưng cho hỏa
ngục, nơi dành cho những kẻ sống
bất chính và thù ghét Thiên Chúa. Nơi đó
họ sẽ phải khóc lóc đau khổ và
nghiến răng tủi hờn. + Kẻ
được gọi thì nhiều mà
người được chọn thì ít:
Nhiều ít không phải về số lượng,
nhưng đúng hơn là sự non kém. Nên
câu này có thể được dịch lại
như sau: “Kẻ được gọi thì đông
hơn, và người được chọn
thì ít hơn”. Câu này lẽ ra
được đặt ngay sau dụ ngôn Tiệc
Cưới. Vì người được
gọi thì rất nhiều “chật ních phòng
tiệc”, và chỉ có người
được mời trước từ
chối và “một người không mặc
áo cưới bị loại ra mà thôi (x. Lc
13,22-30). Việc người được gọi
thì nhiều mà được chọn thì
ít không phải do Thiên Chúa không mời, nhưng
tại loài người đã cố tình
từ chối lời mời của Thiên
Chúa, hay vì không mặc áo cưới
công chính tinh tuyền, không sống giới răn
yêu thương của Chúa Giê-su (x. Mt 3,8 ; 5,20 ; 7,21 ; 13,48 ;
21,32).
4.
HỎI ĐÁP:
- Hỏi 1: So
sánh dụ ngôn Tiệc cưới trong hai Tin
mừng Mát-thêu (22,1-14) và Lu-ca (14,16-24), ta
thấy Tin mừng Lu-ca không nói đến việc
ông vua phát hiện ra có một kẻ không
mặc áo cưới và trừng
phạt y. Vậy Tin mừng nào thuật lại
đúng hơn ?
ĐÁP:
Ngày nay một số nhà chú giải nghĩ
rằng: dụ ngôn Tiệc Cưới do
Đức Giê-su giảng thực ra đã
chấm dứt ngay sau khi vua cho mời những
kẻ nghèo khó, tàn tật mù què
vào đầy phòng tiệc, để thế
chỗ cho những kẻ được
mời mà không đến (x. Lc 14,16-24; Mt 22,1-10).
Còn phần sau trong Tin mừng Mát-thêu (22,11-14)
thực ra là một dụ ngôn khác, là
dụ ngôn “Áo Cưới”, nhưng đã
được đặt liền sau dụ ngôn
“Tiệc Cưới”.
- Hỏi 2:
Ông vua có bất công không khi phạt một
người khách không mặc y phục lễ
cưới chỉ vì bất ngờ
được mời, nên không có thời
gian chuẩn bị trước. Hơn nữa, do
được mời ở ngã ba
đường và bị ép vào phòng
tiệc, thì lấy đâu ra áo cưới
?
ĐÁP:
Những ai nhận đây là hai dụ ngôn
được ghép lại thành một thì
sẽ không có thắc mắc gì về vấn
đề áo cưới, vì ai cũng có
thời giờ chuẩn bị trước
ở nhà. Tuy nhiên ngay cả trường
hợp được mời đột
xuất thì việc phạt người không
mặc áo cưới cũng không bất công.
Vì tại sao bao nhiêu người khác cũng
được mời bất ngờ như
vậy mà vẫn có thể mặc y phục lễ
cưới ? Hơn nữa, khi bị hạch
hỏi, người không mặc áo
cưới này lại làm thinh, không bào
chữa gì được cho hành vi của
mình. Tuy nhiên, đây chỉ là một câu chuyện
dụ ngôn, nên cần quan tâm đến bài học dụ
ngôn muốn dạy, hơn là để ý đến các
chi tiết khác. Điều dụ ngôn muốn dạy là:
Kẻ không mặc áo cưới là kẻ cố
tình không chịu sám hối và tin vào tin Mừng, nên không
đủ điều kiện vào dự tiệc mà còn bị
quăng vào hỏa ngục
đời đời.
II.
SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: Nhà vua tiến vào quan
sát khách dự tiệc, thấy ở
đó có một người không mặc y
phục lễ cưới, mới hỏi
người ấy: “Này bạn, làm sao bạn
vào đây mà lại không có y phục lễ
cưới ?” Người ấy câm miệng không
nói được gì (Mt 22,11-12).
2.
CÂU CHUYỆN:
1)
HÃY LUÔN HƯỚNG VỀ TRỜI CAO:
Một
con gà rừng mẹ đang ấp trứng, nhưng lẫn
trong ổ trứng của nó có một trứng to của
chim đại bàng. Khi đến ngày giờ, các quả
trứng đều nở ra thành con. Đại bàng con nô
đùa vui vẻ bên các chú gà rừng như anh chị em
ruột trong gia đình gà rừng.
Một
ngày kia, khi đang bới móc trong đống rác kiếm
ăn giun đất chung với đàn gà rừng,
đại bàng con chợt thấy một con đại bàng
lớn bay lượn trên không với dáng vẻ oai phong
đẹp mắt. Cậu liền hỏi gà mẹ
rằng:
-
Mẹ ơi, sao bọn mình lại không bay lên cao như chim
đại bàng trên trời kia hả mẹ ?
-
Chúng ta không phải đại bàng nên không thể bay lên
được con ạ !
- Thế chúng ta là ai hả
mẹ ? Đại
bàng con hỏi tiếp.
-
Chúng ta chỉ là loài gà rừng mà thôi !
Rồi
vài ngày sau đó, khi đang khi bươn chải kiếm
ăn trên đống rác, đại bàng con lại thấy
chim đại bàng mẹ bay lượn trên cao gọi
cậu:
-
Hãy bay lên cao với mẹ hỡi con yêu của ta ! Thế
giới của con là trời cao biển rộng, chứ
đâu phải đống rác nhơ bẩn dưới
đó ! Mau bay lên với mẹ đi con.
Đại
bàng con cố đập cánh bay lên theo lời mẹ
gọi, nhưng bay được vài cái là lập tức
bị rơi xuống đất giữa tiếng
cười chế nhạo của anh em gà rừng. Bọn
chúng bảo đại bàng con rằng:
-
Chú chỉ là loài gà rừng, làm sao bay lên cao được
hả chú bé ?
Đại
bàng con tự nhủ : Nếu ta chỉ là gà rừng thì sao
mẹ đại bàng trên cao kia cứ gọi ta là
đại bàng con ? Đàng khác, ta thấy bay lên cao cũng
đâu phải quá khó ! Có lẽ tại ta chưa tập
thành thạo đó thôi. Vậy bây giờ ta thử bay thêm
lần nữa xem sao.
Thế
là đại bàng con đủ lông đủ cánh đã bay
được lên trời và cứ tiếp tục bay lên
cao mãi. Cậu bay theo sau đại bàng mẹ tiến
về một phương trời mới. Lần
đầu tiên trong đời, đại bàng con
được nhìn xuống đất từ trên cao.
Cậu cảm thấy lòng tràn ngập niềm vui vẻ
hạnh phúc.
2)
Y PHỤC NƯỚC TRỜI LÀ CUỘC SỐNG HÂN HOAN, YÊU
THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ
Để
trả lời cho những người muốn
biết Nước Trời ở đâu,
Đức Giê-su đã dạy: “Triều Đại
Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc
17,21). Như vậy, mỗi gia đình, cộng
đoàn hay bất cứ tập thể nào
cũng có thể trở thành thiên đàng
hay hỏa ngục. Có người đã nằm
mơ thấy mình được dự hai bữa tiệc:
một tiệc trên thiên đàng và một tiệc trong hỏa
ngục và thuật lại sự khác biệt giữa hai
nơi như sau:
Cả
hai bàn tiệc trên thiên đàng hay dưới
hỏa ngục đều có đầy thức
ăn ngon, và mỗi người đều
được phát một đôi đũa.
Có điều các đôi đũa đều
dài quá khổ, đến nỗi tuy
người ngồi ăn có thể gắp
được đồ ăn trên bàn, nhưng
lại không sao đưa được đồ ăn vào
miệng của mình. Trong bàn tiệc trên thiên
đàng thì mọi người đồng
bàn đều có lòng vị tha bác ái, nên
biết quan tâm đến người khác và muốn
làm vui lòng người khác, nên họ gắp
đồ ăn phục vụ cho nhau, nên mọi người
đều được ăn no và không khí
bàn tiệc rất vui vẻ bình an và hạnh
phúc. Ngược lại, tại bàn tiệc
trong hỏa ngục thì mọi người
đều ích kỷ chỉ nghĩ đến bản
thân. Vì không thể tự gắp đồ ăn cho
mình, và do thói ganh tị nên họ cũng không muốn phục
vụ người khác, nên mọi người đều
bị đói và thù ghét đánh lộn nhau.
Kết quả là người thì đau khổ khóc
lóc, kẻ lại nghiến răng giận
hờn.
3)
CHUẨN BỊ TIỆC NƯỚC TRỜI ĐỜI SAU BẰNG
VIỆC NĂNG DỰ TIỆC THÁNH ĐỜI NÀY:
Một
bé gái bệnh nặng, một hôm biết mình khó qua khỏi,
em gọi cha mình lại để nói chuyện.
Người cha này rất nguội lạnh, lại hay
ăn nhậu và không bao giờ đến nhà thờ. Em
hỏi: - “Cha có thương con không?”. Người cha
cảm động nói: - “Sao con lại hỏi thế, cha
rất yêu con!”. – “Con sắp xa cha rồi, con sắp về
với Chúa rồi!”. – “Không! Con sẽ mạnh, cha
thương con lắm!”. Người cha ôm con khóc nức
nở. – “Con sẽ gặp Chúa, con yêu Chúa, nhưng con
cũng yêu cha, con không muốn xa cha, cha có muốn gặp
lại con và sống mãi bên con không?” – Người cha
nghẹn ngào đáp: - “Có, con yêu!”. – “Vậy cha hãy hứa
với con là cha sẽ năng đi lễ nhà thờ nhé! Con
muốn được gặp lại cha trên Thiên Đàng”.
Người cha trả lời trong nước mắt: -
“Cha hứa!”. - “Con vui lắm rồi, con hẹn sẽ
gặp lại cha nhé!”. Bé gái nhìn cha mỉm cười và sau
đó ít phút, em nhắm mắt ra đi. Sau ngày an táng con gái
thân yêu, người cha đã giữ lời hứa để
trở thành một con chiên ngoan đạo hằng ngày
dự lễ rước lễ. Ông còn tình nguyện tham gia
vào ban phục vụ nhà thờ. Cuối cùng ông đã
chết trong bình an với niềm hy vọng
được hưởng hạnh phúc Nước
Trời với người con gái thân yêu.
Muốn được vào dự
tiệc Nước Trời, đòi người ta phải “mặc
áo cưới” là có lòng sám hối tội lỗi và năng
kết hiệp với Chúa Thánh Thể. Rồi biết phục
vụ Chúa trong những người nghèo khổ bất
hạnh như lời Chúa phán với người lành trong
Ngày Phán Xét : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến
thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho
các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập
địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho
ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống. Ta là khách
lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần
truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu,
các ngươi đã thăm nom, Ta ngồi tù, các
ngươi đã đến thăm… Ta bảo thật các
ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế
cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta
đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,34-36.40).
3. SUY
NIỆM:
1)
THIÊN CHÚA BAN ƠN CỨU ĐỘ LOÀI NGƯỜI QUA HAI
GIAI ĐOẠN:
Giai
đoạn một: Thiên Chúa đã sai các ngôn
sứ đến với dân It-ra-en báo tin về
một Đấng Thiên Sai sẽ đến thiết
lập một “Triều Đại của Thiên Chúa”,
và mời dân này gia nhập. Khi gần đến
ngày đã định, Thiên Chúa lại sai Gio-an
Tẩy Giả là vị tiền sứ của
Đấng Thiên Sai đến nhắc lại
lời mời gọi ấy như sau: “Anh em
hãy sám hối, vì Nước Trời
đã đến gần” (Mt 3,2). Nhưng dân Ít-ra-en
vẫn tỏ thái độ thờ ơ và vua
Hê-rô-đê đã giết hại Gio-an. Về sau dân này còn hè
nhau giết hại chính Người Con do Thiên Chúa sai
đến là Đức Giê-su.
Giai
đoạn hai: Ttrước sự cứng lòng của dân
Ít-ra-en đã từ chối ơn cứu độ, Thiên
Chúa đã mời mọi dân tộc khác vào dự
tiệc cưới Nước trời, qua
lời Đức Giê-su truyền cho các môn đệ sứ
vụ truyền giáo như sau: “Anh em hãy đi và làm cho muôn
dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Rồi
nhờ ơn Thánh Thần ban, các Tông đồ đã chu
toàn sứ mạng loan báo Tin mừng khắp muôn dân.
Nhờ Thánh Thần tác động mà số
người gia nhập vào Hội thánh ngày
một gia tăng.
2) ĐÁP
LẠI LỜI MỜI GỌI CỦA THIÊN CHÚA THẾ
NÀO ? :
-
Hãy luôn hướng lòng trí về những sự trên
trời:
Kitô
hữu là «Giống nòi được tuyển chọn, là
hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng
của Thiên Chúa» (1 Pr 2,9). Tuy sống trong thân phận con
người trần gian, nhưng phải ý thức mình không
thuộc về trần gian. Chúng ta đừng nghĩ mình
là loài gà rừng hèn hạ, để chỉ biết cúi
đầu bươi chải đống rác hôi thối tìm
kiếm thức ăn, chỉ biết bằng lòng với
những hạnh phúc tầm thường chóng qua do tiền
tài danh vọng sắc dục mang lại. Chúng ta cần
phải nhìn lên cao, cố gắng tập vươn tâm
hồn lên những gì là cao thượng, phù hợp với
Thiên đàng vinh phúc như lời thánh Phao-lô dạy: ”Quê
hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong
đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến
cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc
phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà
biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên
giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
- Phải mặc
y phục lễ cưới là một tâm hồn thanh
sạch và sống đức Tin, Cậy, Mến:
Chúng
ta vốn là dân ngoại, nhưng đã đáp
lại lời mời của Đức Giê-su
để gia nhập vào Hội thánh (x. Mc 1,15). Nhưng
muốn được tham dự bàn tiệc
Nước Trời đời sau, chúng ta
cần mặc chiếc áo trắng khi chịu
phép rửa tội là “Ăn năn sám hối và tin
vào Tin Mừng” (x. Mt 7,21; Lc 11,28). Thánh Phao-lô cũng khuyên
đồ đệ Ti-mô-thê : “Lời truyền dạy
đó phải nhằm đưa tới đức mến,
phát xuất từ tâm hồn trong sạch, lương tâm
ngay thẳng, và đức tin không giả hình” (1 Tm 1, 5). Đó
chính là y phục lễ cưới phải có để vào Nước
Trời.
- Chu toàn sứ
mệnh tông đồ là đổi mới trần gian thành
Thiên Đàng yêu thương:
Đổi mới bản thân ngày một thanh
sạch hơn: "Nước Thiên Chúa đang ở
giữa các ông." (Lc 17,21). Do đó, chúng ta hãy năng xin
Chúa cho mình ngày một nên giống Đức Giê-su hơn.
Đổi
mới môi trường sống là phúc âm hóa gia đình, khu
xóm, trường học, nhà máy, công sở… ngày một an
toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn… để
trở nên “Trời Mới Đất Mới”.
Cần
ăn năn sám hối tội lỗi mỗi ngày, quyết
tâm sống khiêm hạ, yêu thương và phục
vụ Chúa qua tha nhân, nhất là chia sẻ với những người
bệnh tật, nghèo khổ và bị bỏ rơi (x. Lc
17,10; Mt 25,34), và luôn ý thức chu toàn sứ mạng
loan báo Tin mừng (x. 1 Cr 9,16).
Hãy
luôn thao thức hướng lòng về với Chúa như
thánh Au-gút-tinô đã thưa với Chúa: ”Lạy Chúa, Chúa
đã dựng nên con hướng về Chúa. Và tâm hồn con
vẫn còn thao thức mãi, cho tới khi nào con
được nghỉ yên trong Chúa”.
Mỗi
tối trước khi đi ngủ, chúng ta hãy
tự hỏi: Hiện giờ tấm áo
trắng rửa tội của tôi có còn tinh
tuyền không ? Hôm nay tôi đã sống giới
răn mến Chúa yêu người thế nào ?
Giả như đêm nay Chúa gọi tôi về trình
diện, tôi có đủ điều kiện để
được tham dự bàn tiệc
Nước Trời hay không ?
4.
THẢO LUẬN:
1) Thánh Gio-an
viết: “Thiên Chúa là tình yêu”. Ai ở
lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên
Chúa và Thiên Chúa ở lại trong
người ấy” (1 Ga 4,16b). Vậy thiên đàng ở
đâu ?
2) Bạn sẽ làm
gì để biến đổi gia đình hay cộng
đoàn của bạn trở nên thiên đàng yêu
thương ngay từ ngày hôm nay ?
5.
NGUYỆN CẦU:
LẠY
CHÚA GIÊ-SU. “Xin cho con biết Chúa và xin cho con
biết con”. Xin cho con biết luôn quên mình để
làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa.
Xin cho con biết khiêm hạ, luôn làm việc để
tôn vinh Thiên Chúa và để góp phần cứu
rỗi các linh hồn. Ước gì con biết
hãm mình và luôn sống trong tình thương
của Chúa. Ước gì con biết
đón nhận tất cả những gì
xảy đến cho con và trung thành vác thập giá
mình để bước theo Chúa đến
cùng. Xin đừng để điều gì
thuộc về trần gian quyến rũ con lạc xa
Chúa. Xin thương xót con và giúp con thêm
lòng tin yêu Chúa, hầu sau này con đáng
được vào dự bàn tiệc Nước
Trời hạnh phúc đời đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|