HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY A
Ed 37,12-14 ; Rm 8.8-11 ; Ga 11,3-45
TIN VÀO ĐỨC GIÊ-SU ĐỂ
ĐƯỢC SỐNG LẠI VÀ SỐNG ĐỜI ĐỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Ga 11,3-45
(1) Có một người bị đau nặng,
tên là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a, làng của hai
chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a. (2) Cô Ma-ri-a là người
sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và
lấy tóc lau chân Người. Anh La-da-rô, người
bị đau nặng, là em của cô. (3) Hai cô cho người
đến nói với Đức Giê-su : “Thưa
Thầy, người Thầy thương mến
đang bị đau nặng”. (4) Nghe vậy, Đức
Giê-su bảo : “Bệnh này không đến nỗi chết
đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh
quang của Thiên Chúa : qua cơn bệnh này, Con Thiên
Chúa được tôn vinh”. (5) Đức Giê-su
quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là
Ma-ri-a và anh La-da-rô. (6) Tuy nhiên, sau khi được
tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại
thêm hai ngày tại nơi đang ở. (7) Rồi
sau đó, Người nói với các môn
đệ : “Nào, chúng ta cùng trở lại
miền Giu-đê !”. (8) Các môn đệ nói : “Thưa
Thầy, mới đây người Do thái tìm
cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn
đến đó sao ?” (9) Đức Giê-su trả lời
: “Ban ngày chẳng có mười hai giờ
đó sao ? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã,
vì thấy ánh sáng của thế gian này.
(10) Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì
không có ánh sáng nơi mình !”. (11) Người
nói những lời này, sau đó Người
lại bảo : “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang
yên giấc. Tuy vậy, Thầy đi đánh thức
anh ấy đây”. (12) Các môn đệ nói với
Người : “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc
được, anh ấy sẽ khỏe lại”. (13)
Đức Giê-su nói về cái chết của
anh La-da-rô, còn họ tưởng Người nói
về giấc ngủ thường. (14) Bấy giờ
Người mới nói rõ : “La-da-rô đã
chết”. (15) Thầy mừng cho anh em, vì Thầy
đã không có mặt ở đó, để
anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy”.
(16) Ông Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với
các bạn đồng môn : “Cả chúng ta nữa,
chúng ta cùng đi để cùng chết với
Thầy !”. (17) Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy
anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn
ngày rồi. (18) Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy
ba cây số. (19) Nhiều người Do thái đến
chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì
em các cô mới qua đời. (20) Vừa
được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta
liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì
ngồi ở nhà. (21) Cô Mác-ta nói với
Đức Giê-su : “Thưa Thầy, nếu có Thầy
ở đây, em con đã không chết. (22) Nhưng
bây giờ con biết : “Bất cứ điều gì
Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ
ban cho Thầy”. (23) Đức Giê-su nói : “Em chị
sẽ sống lại !” (24) Cô Mác-ta thưa : “Con biết
em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại
trong ngày sau hết”. (25) Đức Giê-su liền phán
: “Chính Thầy là sự sống lại và
là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù
đã chết, cũng sẽ được sống.
(26) Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ
phải chết. Chị có tin thế không ?” (27) Cô Mác-ta
đáp : “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy
là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải
đến thế gian”. (28) Nói xong, cô đi gọi em là
Ma-ri-a, và nói nhỏ : “Thầy đến rồi,
Thầy gọi em đấy !”. (29) Nghe vậy, cô Ma-ri-a vội
đứng lên và đến với Đức
Giê-su. (30) Lúc đó, Người chưa vào
làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mác-ta
đã ra đón Người. (31) Những người
Do thái đang ở trong nhà với cô Ma-ri-a
để chia buồn, thấy cô vội vã đứng
dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng
cô ra mộ khóc em. (32) Khi đến gần Đức
Giê-su, cô Ma-ri-a vừa thấy Người, liền
phủ phục dưới chân và nói : “Thưa
Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã
không chết”. (33) Thấy cô khóc, và những người
Do thái đi với cô cũng khóc, Đức
Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến.
(34) Người hỏi : “Các người để
xác anh ấy ở đâu ?” Họ trả lời
: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà
xem”. (35) Đức Giê-su liền khóc. (36) Người
Do thái mới nói : “Kìa xem ! Ông ta thương
anh La-da-rô biết mấy !” (37) Có vài người
trong nhóm họ nói : “Ông ta đã mở
mắt cho người mù, lại không thể
cho anh ấy khỏi chết ư ?” (38) Đức
Giê-su thổn thức trong lòng. Người
đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một
cái hang có phiến đá đậy lại.
(39) Đức Giê-su nói : “Đem phiến đá
này đi”. Cô Mác-ta là chị người
chết liền nói : “Thưa Thầy, nặng mùi
rồi, vì em con ở trong mồ đã được
bốn ngày”. (40) Đức Giê-su bảo : “Nào
Thầy đã chẳng nói với chị
rằng nếu chị tin, chị sẽ được
thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?”. (41) Rồi người
ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước
mắt lên và nói : “Lạy Cha, con cảm tạ
Cha, vì Cha đã nhậm lời con. (42) Phần
con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng
vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã
nói để họ tin là Cha đã sai con”. (43)
Nói xong, Người kêu lớn tiếng : “Anh
La-da-rô, hãy ra khỏi mồ !”. (44) Người chết
liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt
còn phủ khăn, Đức Giê-su bảo : “Cởi
khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy
đi”. Trong số những người Do thái
đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng
kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều
kẻ đã tin vào Người.
2. Ý CHÍNH :
Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a thì
La-da-rô đã chết và chôn được bốn
ngày. Gặp hai bà Mác-ta và Ma-ri-a là
chị người chết đang khóc thương
em, Đức Giê-su đã trấn an họ rằng
: “Chính Thầy là sự sống lại và
là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù
đã chết cũng sẽ được sống”
(25). Khi ra thăm mộ của La-da-rô, Đức Giê-su
đã cầu nguyện với Chúa Cha rồi
truyền cho La-da-rô ra khỏi mồ (43) và người
chết liền trỗi dậy đi ra ngoài. Qua phép
lạ phục sinh La-da-rô này, Đức Giê-su đã
mặc khải Người chính là Đấng
Thiên Sai Con Thiên Chúa hằng sống. Người
sẽ ban sự sống và sự sống lại
muôn đời cho những ai đặt trọn
niềm tin nơi Người. Mỗi tín hữu phải
trở thành ngôn sứ của sự sống.
3. CHÚ THÍCH :
- C 1-5 : + La-da-rô : là tên của người
bạn thân với Đức Giê-su, ở làng
Bê-ta-ni-a (x. Ga 11,3). Ngoài La-da-rô này, cũng còn
một người ăn xin tên là La-da-rô trong Tin Mừng
Lu-ca (x. Lc 16,20). + Bê-ta-ni-a : Là một làng
nằm ở phía Đông núi Cây Dầu, cách
Giê-ru-sa-lem khoảng ba cây số (x. Ga 11,18). Đức
Giê-su thường đến trọ tại làng này
mỗi khi có dịp lên Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra, còn
một Bê-ta-ni-a khác là nơi Đức Giê-su
chịu phép rửa (x. Lc 16,20). + Mác-ta : là
chị lớn trong ba chị em. Bà có tính
năng nổ hướng ngoại thể hiện khi
đón tiếp Đức Giê-su (x. Lc 10,38-42). +
Ma-ri-a : là em của Mác-ta, có tính trầm
lặng hướng nội, sẵn sàng hy
sinh bình dầu thơm quý giá để xức
chân Người (x. Ga 12,1-8). Theo phần lớn các nhà
chú giải Thánh Kinh : Bà Ma-ri-a này không phải là người
đàn bà tội lỗi (x. Lc 7,36-50), không phải
là người phụ nữ ngoại tình
(x. Ga 8,3-11), cũng không phải Ma-ri-a Ma-đa-lê-na được
trừ khỏi bảy quỷ ám (x. Lc 8,2).
- C 6-16 : + Mới đây người
Do thái tìm cách ném đá Thầy : Các
môn đệ mang tâm trạng sợ hãi vì ý
thức nguy hiểm : Thầy có thể bị kẻ
thù giết hại tại Giê-ru-sa-lem. + Ban ngày
chẳng có mười hai giờ đó
sao ? : Đức Giê-su quyết tuân theo chương
trình Chúa Cha đã truyền. + La-da-rô, bạn
của chúng ta đang yên giấc. Tuy vậy, Thầy
đi đánh thức anh ấy đây : Đức
Giê-su dùng chữ “ngủ” để ám chỉ
cái chết, giống như trường hợp
của con gái ông Gia-ia (x. Mc 5,39). Thánh Phao-lô cũng
coi cái chết chỉ là một giấc ngủ (x.
1 Tx 4,14), là một bước phải vượt
qua đến sự sống lại (x. Ep 5,14). + Thầy
mừng cho anh em, vì Thầy đã không có
mặt ở đó, để anh em tin :
Đức Giê-su mừng vì môn đệ sắp
được dịp chứng kiến Người
truyền cho La-da-rô sống lại, để các ông vững
tin nơi Người.
- C 17-27 : + Khi đến nơi, Đức
Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được
bốn ngày rồi : Theo phong tục người
Do thái thì người chết thường
được chôn ngay trong ngày vừa chết
(x. Cv 5,6). Người Do thái tin rằng trong ba
ngày đầu, hồn vía người chết
còn lảng vảng gần xác chết. Sang ngày
thứ tư khi xác thối rữa, nó mới
tan đi. Con số bốn ngày ở đây như
muốn nói La-da-rô đã chết thật sự.
+ Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết
sống lại trong ngày sau hết : Thời Cựu
Ước, nhiều người tin có sự
kẻ chết sống lại (x Đn 12,2-3; 2 Mcb 7,23). Đến
thời Đức Giê-su, nhóm Pha-ri-sêu cũng
tin như vậy, nhưng nhóm Xa-đốc thì không
tin (x Cv 23,8). Riêng Mác-ta tuy tin kẻ chết sẽ sống
lại trong ngày tận thế như nhóm Pha-ri-sêu, nhưng
vẫn muốn Đức Giê-su làm phép lạ cho em được
sống lại ngay lúc này. + Chính Thầy là sự
sống lại và là sự sống. Ai tin vào
Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ
được sống : Đức Giê-su là
sự sống phát xuất từ Chúa Cha (x.
Ga 5,26). Người làm cho những kẻ tin Người
được sống đời đời
(x. Ga 5,24-25). Người cũng sẽ ban cho những
kẻ tin được sống lại vào ngày
cánh chung, dù xác của họ có bị tiêu hủy
cũng sẽ được sống lại (x. Ga 5,28-29). +
Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa,
Đấng phải đến thế gian : Mác-ta
tuyên xưng Đức Giê-su chính là Đấng
Thiên Sai (x. Ga 1,19).
- C 28-37 : + Thấy cô khóc, và những
người Do thái đi với cô cũng khóc,
Đức Giê-su thổn thức trong lòng và
xao xuyến : Theo thói tục của người
Do thái, khi có khách đến viếng xác,
thì người nhà bật khóc to, và khách
cũng tự nhiên phát khóc lên theo.
- C 38-44 : + Đức Giê-su thổn thức
trong lòng : Trước sự đau khổ
của tang gia, Đức Giê-su có thái độ
cảm thông đầy tình người. Nhưng thực
ra nguyên nhân sâu xa khiến Đức Giê-su khóc một
phần còn vì sự cứng lòng tin của
những người Do thái hiện diện (37) và
vì niềm tin nửa vời của hai chị em Mác-ta
và Ma-ri-a (39). + Đem phiến đá này
đi : Phần mộ của người Do thái
giàu có thường khoét vào núi
đá. Sau khi tắm rửa, xác chết
được xức thuốc thơm, cột lại
bằng giây băng vài và phủ khăn liệm, đưa
vào mồ chôn cất rồi lấp ngòai cửa mồ
bằng một tảng đá lớn, như hai
môn đệ an táng Đức Giê-su sau này (x Ga
19,40-42). + Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì
em con ở trong mồ đã được bốn
ngày : Tuy Mác-ta vừa tuyên xưng đức
tin, nhưng vẫn nghi ngờ Ngừơi có thể làm
cho La-da-rô sống lại. + Chị sẽ được
thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ? : Vinh quang ở
đây là quyền năng Thiên Chúa tỏ hiện
qua việc người sắp cho La-da-rô từ
cõi chết sống lại. + Đức Giê-su ngước
mắt lên và nói : “Lạy Cha, con cảm tạ
Cha, vì Cha đã nhậm lời con" : Người
Do thái khi cầu nguyện thì quay mặt về
hướng Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Còn ở
đây Đức Giê-su lại ngước nhìn
lên trời. Đây là lối cầu nguyện của
các Ki-tô hữu sau này. + Người kêu lớn
tiếng : “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ !":
Đức Giê-su ra lệnh cho người chết
sống lại. Điều đó cho thấy Người
có quyền trên sự chết. + Cởi
khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy
đi : La-da-rô sau khi sống lại phải được
người khác cởi khăn và vải
liệm. Trái lại, Đức Giê-su sau khi phục sinh,
những băng vải vẫn còn để lại
trong mồ và khăn che đầu Người cũng
được cuốn lại và xếp để
riêng ra một nơi (x. Ga 20,5-7).
4. CÂU HỎI :
1) Ma-ri-a Bê-ta-ni-a có phải là người
đàn bà tội lỗi, người phụ nữ
ngoại tình sắp bị ném đá hay bà
Ma-ri-a Ma-đa-le-na hay không ? 2) Đức Giê-su nói
La-da-rô đang yên giấc có ý ám chỉ điều gì
? Hai trường hợp khác tương tự
là những trường hợp nào ? 3)
Theo phong tục Do Thái thì người chết
được chôn khi nào ? Ở đây việc
La-da-rô được chôn bốn ngày rồi mang ý
nghĩa gì ? 4) Thời Đức Giê-su, niềm
tin về việc kẻ chết sống lại giữa
hai phái Xa-đốc và Biệt phái khác nhau
ra sao ? 5) Tại sao Đức Giê-su lại thổn thức
trong lòng và xao xuyến khi thấy Mác-ta và
người đi theo cô khóc ? 6) Khi nói : "Thưa
Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở
trong mồ đã được bốn ngày"
Mác-ta có hòan tòan tin vào quyền năng phục
sinh kẻ chết của Đức Giê-su không ? 7) Ngày
nay các tín hữu hướng về đâu khi
cầu nguyện ? Tại sao ? 8) Tình trạng của
La-da-rô sau khi sống lại khác với tình trạng
sống lại của Đức Giê-su thế nào ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Chính Thầy là
sự sống lại và là sự sống. Ai
tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng
sẽ được sống” (Ga 11,25).
2. CÂU CHUYỆN :
1) TÍN THÁC VÀO QUYỀN
NĂNG CỦA CHÚA SẼ ĐƯỢC ƠN PHỤC SINH.
Một bé gái nọ
có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày
kia, em bị bệnh nặng phải vào nhà thương. Các
bác sĩ cho biết chỉ có giải phẫu mới có hy vọng
cứu sống em. Trước khi cho thuốc gây mê, các bác sĩ
và y tá báo cho em biết là em sẽ được ngủ một
giấc dài. Nghe nói ngủ, cô bé ngây thơ đã xin được
quỳ xuống cầu nguyện. Thế là trước mặt
mọi người, cô bé quỳ gối cầu nguyện một
cách hết sức chân thành, và em kết thúc bằng lời
nguyện như sau: “Xin Chúa cho con được chóng lành bệnh”.
Cầu nguyện xong, em bé nằm xuống và xin các bác sĩ
và y tá tiến hành cuộc giải phẫu...
Ngày hôm sau, cô bé
tỉnh dậy với nỗi đau tột cùng. Câu hỏi
đầu tiên của em với bác sĩ là:
- Cháu có được
lành bệnh không, thưa bác sĩ ?
Vị bác sĩ
nhìn thẳng vào đôi mắt của em và đáp với tất
cả sự xúc động:
- Cháu hãy để
cho Chúa lo liệu, bác chưa biết được kết
quả của cuộc giải phẫu. Nhưng có một
điều bác tin chắc, đó là cháu đã cứu được
một người, và người đó không ai khác hơn
đó chính là bác đây! Từ lâu, bác đã không đến
nhà thờ, bác không còn nhớ đến Chúa và cũng không
bao giờ cầu nguyện nữa. Thế nhưng, hôm qua
khi nhìn thấy cháu cầu nguyện một cách thật sốt
sắng, bác không cầm được nước mắt.
Chúa đã đánh động bác. Sáng nay, bác đã đến
nhà thờ xưng tội và chịu lễ. Bác tin chắc rằng
Chúa đã nhận lời cháu. Cháu đừng lo lắng nữa.
Hãy phó thác cho Thiên Chúa!.
Khi gặp hoàn cảnh
khó khăn, chúng ta hãy tín thác vào tình thương và quyền
năng của Chúa để được ơn Chúa chữa
lành bệnh tật cho mình và giúp người khác cũng
được ơn sống lại thật về phần
linh hồn như em bé trong câu chuyện trên.
2) VỀ MỘT CON NGƯỜI ĐƯỢC
SỐNG LẠI VỀ PHẦN LINH HỒN :
SI-TA ĐE-LI vốn là một kẻ chuyên quậy
phá kẻ khác. Anh đã nhiều lần vào
tù ra khám vì tội phá phách cướp giựt.
Trong phiên tòa lần thứ năm, quan tòa đã
phải tuyên bố như sau : “Có phạt anh thêm nữa
cũng vô ích ! Nhưng chúng tôi vẫn phải cách
ly anh. Chúng tôi đã làm hết cách. Quả
thật chúng tôi đã hoàn toàn thất vọng
về anh”. Vào tù lần này, ĐE-LI lại ngựa
quen đường cũ : có những hành
vi vô kỷ luật và đàn áp bạn tù
yếu thế hơn anh, nên anh đã bị biệt
giam trong hai tuần lễ. Nhưng một phép lạ
đã xảy ra: Khi phải nằm thu mình trong
căn hầm chật hẹp tăm tối, nằm trên nền
đá ẩm mốc hôi hám, ĐE-LI đã có dịp
suy nghĩ và nhớ lại những lỗi lầm
đã phạm. Vốn là con một trong gia đình
giàu có, được cha mẹ cho đi học,
nhưng anh lại lười biếng và ăn
cắp tiền của cha mẹ rồi sau đó bỏ
nhà đi hoang. Từng được nhà trường
đánh giá là một học sinh thông minh giàu
sáng kiến, anh chỉ có thói xấu là ham
vui. Vậy tại sao anh lại không sử dụng những
tài năng đó để làm việc tốt
hữu ích cho tha nhân, mà lại bỏ nhà đi
hoang và phạm tội đàn áp bóc lột kẻ khác ? Rồi
sau đó anh bắt đầu có những
giấc mơ đẹp về Đức Giê-su, mà
anh đã từng học biết khi còn theo học
lớp giáo lý vỡ lòng. Dường
như anh thấy Đức Giê-su đang âu yếm nhìn
anh và mời anh hãy đi theo Người. Rồi
hình ảnh những người từng bị
anh gây thương tích lần lượt lướt
qua tâm trí anh. Tự nhiên anh cảm thấy một
tình cảm dào dạt đối với họ.
Chính tình thương ấy đã tắm
mát và chữa lành những vết thương
trong tâm hồn sơ cứng của anh. Cảm nghiệm ấy
đã dần dần biến đổi anh nên một
người mới đầy tràn tình yêu
của Đức Giê-su. Sau hai tuần lễ, ĐE-LI
được ra khỏi ngục biệt giam và trở
lại phòng giam thường phạm. Anh không còn
thái độ bắt nạt bạn tù, trái lại
còn sẵn sàng bênh vực những kẻ
thân yếu thế cô. Anh xin cha tuyên úy nhà giam theo học
lớp Thánh Kinh hằng tuần. Anh trở
thành người học trò chăm chỉ và
xuất sắc nhất trong đám bạn tù. Mấy
năm sau, khi được mãn hạn tù, anh đã
trở thành chủ tịch hội “Cải cách
chế độ lao tù”. Khi nói về anh, cha tuyên úy
nhà lao đã nói : “Si-ta Đe-li là một
bằng chứng sống động nhất về
một phép lạ đã xảy ra : Không những
anh là một con người tội lỗi được
ơn sám hối, mà còn là một tạo
thành mới, một tín hữu tốt lành
thánh thiện và là môn đệ đích thực
của Chúa Giê-su”.
3) TÁC HẠI CỦA THÓI ƯA TRÌ HOÃN “HÃY
ĐỢI ĐẤY” :
Pháp quan Archais ở Thebea đang ngồi uống rượu
với một số đông dũng sĩ của mình, bỗng
có một sứ giả bước vào mang cho ông một bức
thư báo cáo về một âm mưu sát hại ông. Thay vì mở
ngay bao thư ra đọc, ông nhét ngay vào trong túi và nói :
- Để mai hãy hay.
Và qua ngày mai thì ông bị giết chết. Trước
khi bức thư bị khui ra, thì cả chính phủ đã bị
bắt sạch không thoát một ai.
Nếu ngày Chúa lại đến không ai biết trước
thì mọi người đang sống phải chuẩn bị
sẵn sàng cho ngày giờ đó. Ảo tưởng nguy hiểm
nhất là ảo tưởng cho rằng, mình còn sống lâu,
còn có đủ thời gian để kịp hồi tâm sám
hối trước khi chết.
4) HIỆU QUẢ ĐÁNG NGỜ CỦA THUỐC
TRƯỜNG SINH :
Vào thời chiến quốc, có người dâng lên Sở
vương một viên thuốc trường sinh. Ông ta bưng
viên thuốc này vào hoàng cung. Quan cảnh vệ gác cổng
lliền hỏi : “Thuốc này có uống được không
?” Người kia đáp : “Uống được”.
Lập tức viên quan cảnh vệ liền mở viên
thuốc quý ra, cầm cho vào miệng nuốt đi trước
sự ngỡ ngàng của người dâng thuốc. Câu chuyện
được báo cáo lên vua Sở. Vua liền truyền tống
giam quan cảnh vệ vào ngục vì tội “khi quân” và xử
tội chết.
Viên quan liền kêu oan rằng : “Hạ thần đã hỏi
người dâng thuốc và ông ta nói : ”Thuốc có thể uống
được” nên thần mới dám uống. Thế là
hạ thần vô tội mà kẻ có lỗi chính là người
dâng thuốc kia. Hơn nữa, người dâng thuốc lại
nói đó là thuốc trường sinh nghĩa là ai uống vào
sẽ được trường sinh bất tử. Thế
mà thần uống vào lại sắp phải chết. Như
vậy đây là “thuốc tử” chứ sao gọi là “thuốc
bất tử” được ? Điều đó
chứng tỏ người dâng thuốc là kẻ nói dối
mà sao bệ hạ lại tin hắn ?
Vua nghe quan cảnh vệ nói có lý, liền tha không giết
nữa.
3. SUY NIỆM :
1. VỀ MẦU NHIỆM PHỤC SINH KẺ
CHẾT :
Dùng quyền năng siêu nhiên để làm cho người
bệnh nan y được khỏi bệnh thì nhiều người
đã làm được, nhưng làm cho người đã
chết được sống lại thì chỉ những
người được Chúa ban ơn đặc biệt
mới có thể làm được. Chẳng hạn :
Thời Cựu Ước : Ngôn sứ Ê-li-a đã làm cho
con trai của bà góa ở Sa-rép-ta sống lại (x. 1 V
17,17-24); Ngôn sứ Ê-li-sa cũng phục sinh cho con trai của
bà Su-nêm (x. 2 V 4,32-37).
Đến thời Tân Ước, tông đồ Phê-rô
đã làm cho bà Ta-bi-tha đã chết được sống
lại (x. Cv 9,39-42). Riêng Ðức Giê-su đã phục sinh kẻ
chết ít nhất 3 lần : Cho con trai bà góa ở thành Na-in
mới chết đang đem đi chôn sống lại (x.
Lc 7,11-15); Cho con gái ông trưởng hội đường
mới chết đang nằm trên giường được
trỗi dậy (x. Mt 9,18-26); Cho anh bạn thân La-da-rô chết
chôn trong mồ bốn ngày được sống lại ra
khỏi mồ (x. Ga 11,34-45). Ba người này sau khi sống
lại cũng chỉ sống thêm được một thời
gian rồi lại phải chết. Sự sống lại của
họ nhằm tiên báo việc Ðức Giê-su sau này sẽ chiến
thắng thần chết. Người sẽ trải qua cái
chết và đến ngày thứ ba sẽ từ cõi chết
sống lại (x. Ga 20,1-10). Sự phục sinh của Người
là bằng chứng bảo đảm cho niềm tin vào mầu
nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế
như thánh Phao-lô đã khẳng định : “Nếu Ðức
Ki-tô không sống lại, thì niềm tin và lời rao giảng
của chúng tôi là vô ích” (1 Cr 15,14), và sự phục
sinh của Người chứng tỏ Người thực
là Con Thiên Chúa hằng sống.
2. ĐỨC GIÊ-SU, CON THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI
CÓ QUYỀN TRÊN SỰ CHẾT :
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy : Ðức Giê-su
vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm; Người chính
là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã tiên báo sẽ
đến và dân Do thái trông mong.
- Là người phàm, nên Đức Giê-su đã xúc động
thổn thức và khóc thương người bạn thân
khi đứng trước mộ của anh (c 33-35), đến
nỗi người ta phải thốt lên : “Kìa xem ! Ông
ta thương La-da-rô biết mấy !” (c 36). Nhưng là
Thiên Chúa, Đức Giê-su đã phán một lời khiến
La-da-rô chết 4 ngày được trỗi dậy và ra khỏi
mồ. Vì Người “là sự sống lại và
là sự sống. Ai tin vào Người thì
dù đã chết, cũng sẽ được
sống. Ai sống và tin vào Người sẽ
không bao giờ phải chết” (x. Ga 11,25-26).
+ Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su
đã mở cánh cửa sự sống, phá tan sào huyệt của
tử thần : Khi truyền cởi những dải
băng liệm cuốn quanh người La-da-rô, Người
giải phóng anh khỏi quyền lực của tử thần.
+ Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su
cũng mở cánh cửa đức tin của Mác-ta : Trước
đó, đức tin của Mác-ta chỉ mới là thứ
đức tin chung chung giống như đa số người
Do thái đương thời. Nhưng sau khi chứng kiến
La-darô sống lại, đức tin của bà đã trở
thành sống động vững chắc. Trước đó,
nhiều người Do thái vẫn chưa tin Đức Giê-su.
Nhưng sau khi chứng kiến La-da-rô từ cõi chết sống
lại, họ đã đạt đến đức tin vào
Đức Giê-su. Chính khi tảng đá lấp cửa mộ
La-da-rô mở ra cũng phá tan tảng đá nghi ngờ, dẫn
họ tới đức tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa.
+ Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su
cũng mở cánh cửa niềm vui : Sự chết của
La-da-rô gieo tang tóc u buồn cho hai bà chị Mác-ta và Ma-ri-a. Tiếng
khóc của hai người này đã khiến Đức Giê-su
cảm động và không ngăn được dòng lệ.
Nhưng khi La-da-rô được Người cho sống lại,
đám tang biến thành đám hội, lời phân ưu trở
thành lời chúc mừng.
+ Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su
cũng mở cánh cửa niềm hy vọng : Từ nay nhân
loại hy vọng Đức Giê-su là “sự sống lại
và là sự sống”, cũng sẽ làm cho những ai tin vào
Người được tham phần vào sự sống
đời đời với Người như Người
đã nói : “Chính Thầy là
sự sống lại và là sự sống. Ai
tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng
sẽ được sống. Ai sống và tin vào
Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga
11,25-26).
3. MUỐN ĐƯỢC THAM PHẦN SỰ
SỐNG ĐỜI ĐỜI PHẢI BIẾT YÊU THƯƠNG
:
- Đức Giê-su không chỉ yêu bằng thứ tình yêu
thần linh, mà còn yêu thương bằng tình cảm nhân loại.
Tình yêu của Người là thứ tình yêu tột đỉnh
như Tin Mừng Gio-an viết : “Người vẫn yêu thương
những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và
Người yêu thương họ đến cùng !” (Ga
13,1b). Yêu đến cùng là yêu tột cùng, đến
nỗi sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người mình
yêu, như lời Đức Giê-su : “Không có tình thương
nào cao cả hơn tình thương của người
đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga
15,13).
- Tình yêu của Ðức Giê-su đối với
anh bạn thân La-da-rô được thể hiện qua thái
độ xúc động khi trước mộ của anh.
Tình yêu tự nhiên được thể hiện qua ánh mắt
trìu mến, lời nói cử chỉ dịu dàng và thái độ
quảng đại như bà mẹ hiền nựng đứa
con thơ, như Thiên Chúa đã yêu thương con cái loài người
chúng ta, đã sai Con Một đến chịu chết trên
thập giá để đền tội thay cho chúng ta và
đã từ cõi chết sống lại để cứu sống
chúng ta (x. 1 Ga 4,9).
4. TRỞ NÊN NGÔN SỨ CỦA SỰ
SỐNG BẰNG VIỆC THỰC THI YÊU THƯƠNG :
- Trong sứ điệp ngày Giới Trẻ
Thế Giới năm 1996, Đức Thánh Cha
Gio-an Phao-lô II đã khuyên các bạn trẻ như
sau : “Hãy trở nên những ngôn sứ của
sự sống và tình thương, những
ngôn sứ của niềm vui. Hiện nay tuy nhân loại
ngày càng văn minh hơn. Nhưng vẫn có
nhiều bóng tối của sự chết như :
chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử,
si-đa, ám sát, đặt mìn, tai nạn
giao thông… Những cái chết về thể xác
phản ảnh một cái chết nguy hiểm hơn. Đó
là cái chết của Tình Yêu trong lòng con người
! Cái chết ấy sẽ thắng thế khi con người
sống buông thả, chán chường và khép
kín trong sự ích kỷ. Nhưng chúng ta có
Đức Giê-su là “Sự Sống Lại và
là Sự Sống”. Một khi chúng ta liên kết
mật thiết với Đức Giê-su, chúng ta
cũng có thể thông truyền sự sống và
niềm vui cho thế giới, giống như Đức
Giê-su xưa đã trả lại sự sống cho
La-da-rô và lau khô giọt lệ cho hai chị em Mát-ta
và Ma-ri-a… Ki-tô hữu phải sẵn sàng lao
tới bất cứ nơi đâu có những
anh em cần được giúp đỡ, những
nơi có những giọt nước mắt
cần được lau khô, những nơi có
những lời cầu cứu đang mong chờ
được đáp ứng”.
- Mỗi ngày chúng ta cần tích cực chuẩn bị cho
cuộc sống mai sau, bằng một nếp sống bác ái
cụ thể như : "Vui với người vui và khóc
với người khóc”; bằng việc quan tâm thăm viếng,
an ủi động viên, quảng đại chia sẻ tinh
thần vật chất và khiêm tốn phục vụ những
người nghèo khổ bệnh tật và bất hạnh…
Yêu thương không phải bằng môi miệng nhưng bằng
sự quan tâm tới người đau khổ nghèo đói
bệnh tật bất hạnh đang sống ngay bên và sẵn
sàng đáp ứng các nhu cầu, phục vụ họ như
phục vụ chính Đức Giê-su bị bỏ rơi.
4. THẢO LUẬN :
Chúng ta cần phải làm gì để trở
thành Ngôn Sứ của Sự Sống, sẵn
sàng chia sẻ tình thương của Chúa cho đồng
bào Việt Nam, cho những người bệnh
tật đau khổ đang sống chung quanh chúng ta ?
5. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy
đổ tràn ngập tâm hồn chúng con Thần Khí và sức
sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con
chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người
chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa
đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải
bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng
tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.- AMEN.
LM ĐAN VINH
|