TÌNH YÊU LÀ SỨ MỆNH CỦA CHÚNG
TA
ĐỂ GIA ĐÌNH SỐNG DỒI DÀO
Giáo lý chuẩn bị Đại Hội các Gia Đình Thế Giới tại Philadelphia 2015
BÀI TÁM
MỘT MÁI ẤM CHO NHỮNG TRÁI TIM MANG THƯƠNG TÍCH
Nhiều
người, đặc biệt ngày nay, phải đối diện với những hoàn cảnh
đau khổ, do đói
nghèo, tàn tật,
bệnh hoạn,
nghiện ngập, thất nghiệp, sự cô
đơn của tuổi
già. Nhưng nạn ly
dị và đồng tính luyến ái đã tác hại đến
đời sống gia đình một cách sâu xa đặc
biệt.
Các gia đình Kitô hữu
và toàn thể các gia
đình phải là nguồn mạch của lòng nhân hậu, an toàn, thân thiện và nâng đỡ cho những
ai đang phải chống
chọi với
những vấn đề này.
Nghe những lời chói tai của Chúa Giêsu
147. Khi chào đón Thánh
Gia trong Đền thờ, cụ già Simeon đã tuyên bố rằng Hài nhi Giêsu được đặt làm “duyên cớ để người đời chống đối” (Lc 2,34). Các sách Tin Mừng chứng minh sự
thật của những lời này qua phản ứng của nhiều
người đương thời đối với sứ vụ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng đã gây
khó chịu cho nhiều môn đệ của Người[1]. Một
trong những lý do là những lời Người nói nghe sao “chói tai” quá.
148. Một số lời chói tai
nhất của Chúa Giêsu liên quan đến hôn nhân, dục
vọng và gia đình. Giáo huấn của Chúa
Giêsu về tính bất khả phân ly của hôn nhân gây sửng sốt không chỉ cho người Pharisiêu mà còn
cho chính các môn đệ của Người: “Nếu là như thế ... thì thà không kết hôn còn hơn”, một vài môn đệ đã xì xầm với nhau như
thế (Mt 19, 10). Trong Bài Giảng trên Núi, Chúa Giêsu không chỉ đào sâu giáo huấn của Mười
Điều Răn, mà như một Môsê Mới, Người mời gọi
các môn đệ hãy biến đổi triệt để tâm hồn:“Các
con đã nghe luật dạy rằng,“Ngươi chớ ngoại tình”. Nhưng Thầy bảo cho các con biết,
ai nhìn một người phụ nữ mà lòng đầy tà dâm thì đã phạm tội ngoại tình với người ấy trong lòng rồi (Mt 5, 27-28).
149. Các môn đệ làm thành
gia đình mới của Đấng Cứu Thế, trổi vượt và chiếm ưu thế hơn các liên hệ gia đình truyền thống[2]. Với
những ai theo Chúa Kitô, nước của Bí tích
Thanh tẩy quý giá hơn cả máu đào. Giao ước Thiên Chúa đem lại một bối cảnh mới để hiểu thân xác
chúng ta cũng như các mối quan hệ của chúng ta.
150. Hội Thánh tiếp tục sứ
mệnh của Chúa Giêsu trên trần
gian. “Bất cứ ai nghe các con, là nghe Thầy”,
Chúa Giêsu đã nói như thế
với các môn đệ được Người sai đi nhân
danh Người (Lc 10,16). Các
giám mục, hiệp thông với Đức
Thánh Cha, kế vị các tông đồ trong sứ mệnh của các ngài[3]. Do
đó, chẳng có gì ngạc nhiên, khi một vài giáo huấn của Hội Thánh cũng bị xem là “những lời chói tai”, không hợp
với nền văn hóa đương thời, đặc biệt
là về hôn nhân, các biểu lộ tính dục, và gia đình.
Hội Thánh là một bệnh
viện dã chiến
151. Để nắm bắt cho đúng
mục vụ giáo huấn của Hội Thánh, chúng ta
cũng cần phải xem xét bản chất của mục vụ ấy. Đức Thánh Cha Phanxicô từng đưa
ra một sự so sánh rất nổi tiếng là ví Hội Thánh như “một bệnh viện dã chiến sau
trận đánh”. Ngài nói: “Thật vô ích khi hỏi một người bị trọng thương xem họ có
bị mỡ cao hay đường cao không! Việc cần làm là chữa lành ngay những thương tích
của anh ta. Rồi sau đó, chúng ta mới nói đến những chuyện khác. Hãy chữa lành vết
thương, hãy chữa lành vết thương ... Và bạn phải bắt đầu từ những gì cơ bản trở
đi”[4].
152. Tính dục là yếu tố đặc
biệt dễ bị tổn thương nhất trong những gì có thể bị thương tổn nơi con người.
Đàn ông, đàn bà, trẻ con đều có thể bị tổn thương bởi những hành vi tình dục bừa
bãi (của mình hay của người khác), bởi văn hóa phẩm khiêu dâm và những dạng
hoang dâm khác (hiếp dâm, mại dâm, buôn người, ly dị) và nỗi sợ phải dấn thân gắn
bó, hệ quả của một nền văn hóa bài hôn nhân ngày càng lan rộng[5]. Vì
gia đình định hình sâu sắc nên các thành viên của mình (tạo nên một “phả hệ của
mỗi người” về mặt sinh học, xã hội, và quan hệ ) các mối quan hệ tan vỡ trong
gia đình sẽ để lại những vết thương đau đớn đắng cay[6].
153. Đức Thánh Cha
Phanxicô giúp chúng ta hiểu được những “lời nói chói tai” của Hội thánh là những
lời chữa lành cho chúng ta. Nhưng chúng ta cần phải thực hiện một sự phân loại,
trong việc chữa trị những vết thương theo mức độ nghiêm trọng của chúng.
154. Tin Mừng đầy dẫy tường
thuật việc Chúa chữa lành cho người ta. Chúa Kitô - vị lương y, là một hình ảnh
quen thuộc trong các tác phẩm của thánh Augustinô. Trong một bài giảng lễ Phục
Sinh, ngài viết: “Chúa như là một lương y lão luyện biết rõ những gì đang diễn
ra nơi người bệnh, còn hơn bản thân người đó nữa. Thầy thuốc chữa các bệnh của
thể xác, còn Thiên Chúa cũng làm được như vậy nhưng cho các bệnh về linh hồn”[7].
Rút ra từ dụ ngôn người Samari nhân hậu, thánh Augustinô xem Hội Thánh như một
quán trọ, nơi lữ khách bị thương được đưa đến để hồi phục: “Chúng ta, những người
đầy thương tích, hãy nài xin thầy thuốc, hãy lo cho mình được đưa đến nhà trọ để
được chữa lành… Do đó, anh em thân mến, trong thời đại ngày nay, Hội Thánh cũng
vẫn như vậy, vẫn là nơi những người bị thương tích được chữa lành, là nhà trọ
cho lữ khách”[8].
155. Trong Hội Thánh, ưu
tiên số một là đưa mọi người đến gặp gỡ Vị Lương Y Thần Linh. Bất kỳ cuộc gặp gỡ
nào với Đức Kitô cũng đem lại ơn chữa lành cho nhân loại sa ngã, và Thần Khí
luôn được mời đến để thăm viếng tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta sám hối và hoán
cải. Nói theo Đức Thánh Cha Phanxicô: “Tôi mời gọi mọi Kitô hữu, ở mọi nơi, vào
ngay lúc này, hãy đến gặp gỡ Chúa Giêsu một cách riêng tư và mới mẻ, hay ít ra,
hãy mở lòng ra để cho Người gặp gỡ anh em. Tôi xin tất cả anh chị em hãy làm điều
này mỗi ngày, đừng bỏ ngày nào. Đừng ai nghĩ rằng lời kêu gọi này không dành
cho mình. Vì “không một ai bị loại ra khỏi niềm vui mà Thiên Chúa mang lại”[9].
156. Khi Đức Thánh Cha
Phanxicô nhấn mạnh một cuộc gặp gỡ riêng tư với Chúa Giêsu, ngài tái khẳng định
những gì mà các bậc tiền nhiệm của ngài đã làm. Đức Bênêđictô XVI đã nói: “Làm
Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao thượng,
nhưng là cuộc gặp gỡ với một sự kiện, một con người, vốn đem lại cho đời ta một
chân trời mới và một hướng đi có tính quyết định”[10]. Và
Đức Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Để có
thể có ‘cuộc gặp gỡ’ này với Chúa Kitô, Thiên Chúa đã dựng nên Hội Thánh của
Ngài. Thật vậy, Hội Thánh ‘hằng khát khao phục vụ cho chung cuộc duy nhất
này, là mỗi người đều có thể tìm thấy Chúa Kitô, để Người có thể đồng hành với
mỗi người trên đường đời”[11].
157. Công cuộc Tân Phúc âm hóa có thể được hiểu là việc đưa về
những người bị thương từ chiến trường trần thế đến gặp gỡ Vị Lương Y Thần Linh
và Người chữa lành cho trong cộng đoàn Hội Thánh. Đức Phanxicô xem bổn phận này
là thách thức trở nên một “Hội Thánh truyền giáo”, hay một “Hội Thánh lên đường”[12].
Với kiên nhẫn và khoan dung, Hội Thánh giúp chúng ta chữa lành
và lớn lên
158. Trong Hội Thánh, quyền năng chữa lành của ân sủng Thiên
Chúa được thông ban qua Chúa Thánh Thần. Ngài làm cho Chúa Giêsu hiện diện
trong phượng tự theo phụng vụ của Hội Thánh, khi đọc Kinh thánh trong cầu nguyện
dưới ánh sáng của thánh truyền, và trong giáo huấn của Hội Thánh nhằm phục vụ Lời
Chúa[13].
Chúa Kitô Vị Lương Y, đặc biệt hiện
diện trong các Bí tích Hòa giải và Xức dầu bệnh nhân, vốn là hai Bí tích Chữa
lành[14].
159. Tham dự vào đời sống bí tích, thăng tiến đời sống cầu nguyện,
thực hành bác ái, giữ kỷ luật thiêng liêng, ý thức trách nhiệm và sự nâng đỡ từ
các bạn hữu trong Hội Thánh, tất cả những việc này mang lại cho các Kitô hữu
mang thương tích nhưng đang hồi phục một con đường hoán cải. Nhưng hoán cải
không thể hoàn thành trong phút chốc, mà tiếp diễn không ngừng như lời mời gọi
liên tục cho mọi thành viên trong Hội Thánh: “Lời mời gọi hoán cải của Đức Kitô
tiếp tục vang vọng trong đời sống các Kitô hữu. Sự hoán cải thứ hai này là một bổn phận liên tục đối với toàn thể Hội
Thánh, ‘hằng ôm các tội nhân vào lòng, vừa thánh thiện vừa luôn cần được thanh
luyện, và không ngừng theo con đường sám hối và canh tân’”[15].
160. Bản chất của sự hoán
cải luôn tiến triển tạo nên khả năng nhận thức và sống giáo huấn Hội thánh của
chúng ta. Nói về sự tiến triển đạo đức của các Kitô hữu kết hôn, thánh Gioan
Phaolô II đã phân biệt giữa “luật tiệm tiến” (the law of gradualness) và “sự tiệm
tiến của luật” (gradualness of the law)[16].
“Luật tiệm tiến” nói đến bản chất
luôn tiến triển của hoán cải. Khi hồi phục khỏi các thương tích do tội lỗi, các
Kitô hữu lớn lên trong sự thánh thiện ở mọi mặt của đời sống, kể cả mặt tính dục.
Khi thất bại, họ cần trở lại với lòng thương xót của Thiên Chúa, vốn có thể chạm
đến trong các bí tích của Hội thánh.
161. Mặt khác, “sự tiệm
tiến của luật” là một ý tưởng sai lầm khi cho rằng “có các mức độ hay hình thức
giới luật khác nhau trong lề luật Thiên Chúa thay đổi theo các cá thể và hoàn cảnh
khác nhau”[17].
Ví dụ một số người lập luận cách sai lầm rằng các cặp vợ chồng nào thấy
giáo huấn Công giáo về việc làm cha mẹ có trách nhiệm là một gánh nặng, thì hãy
khuyến khích họ theo lương tâm của mình mà chọn lấy một cách tránh thai nào đó.
Đây là một hình thức sai lầm của chủ trương cấp tiến (tiệm tiến của luật). Thực
ra đó chẳng qua là biến tướng của một thứ chủ nghĩa gia trưởng (paternalism),
phủ nhận khả năng của một số thành viên trong Hội thánh đáp lại tình yêu tràn đầy
của Thiên Chúa, và nhắm “hạ thấp rào chắn” của giáo huấn luân lý Kitô giáo cho
họ.
162. Trong tinh thần của
một chủ trương tiệm tiến thực sự, Đức Thánh Cha Phanxicô mới đây đã tán dương
lòng dũng cảm của vị tiền nhiệm của ngài, Đức Phaolô VI, trong Thông điệp Humanae Vitae. Trong khi chống lại áp lực
xã hội ngày càng lớn mạnh về kiểm soát dân số, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng:
“Thiên tài của Đức Phaolô VI có tính tiên tri, ngài đã dũng cảm đi ngược lại đa
số, bảo vệ kỷ luật luân lý, thắng hãm nền văn hóa đương đại, chống lại thuyết
tân-Malthus, hiện tại và trong tương lai”[18].
163. Nhưng đồng thời, Đức
Thánh Cha Phanxicô cũng lưu ý rằng Đức Phaolô VI đã truyền cho các cha giải tội
phải diễn giải Thông điệp của ngài với “đầy lòng nhân hậu, [và] quan tâm đến
các trường hợp cụ thể.... Vấn đề không phải là liệu có thay đổi giáo lý hay
không, nhưng là đi sâu hơn và bảo đảm việc chăm sóc mục vụ tùy từng trường hợp
và tùy những gì mỗi người có thể làm”[19].
Do đó, Hội Thánh mời gọi các thành
viên của mình hướng đến chân lý toàn vẹn, và khuyến khích mọi người tận dụng
lòng nhân hậu của Chúa trong khi khả năng sống chân lý ấy nơi
họ được lớn lên.
Giáo huấn Công giáo dựa trên cộng đoàn Công giáo
164. Nhiều giáo huấn luân
lý của Đức Kitô, và đạo đức học Công giáo rất đòi hỏi. Nhưng những giáo huấn ấy
giả định nơi các Kitô hữu phải có một tinh thần kỷ luật, một đời sống cầu nguyện,
và một sự dấn thân làm chứng tá Kitô giáo trong lãnh vực xã hội và kinh tế.
Trên hết, giáo huấn đó giả thiết phải được sống trong một cộng đoàn Kitô giáo,
ví dụ như một gia đình gồm những người nam và nữ đã gặp gỡ Chúa Giêsu, cùng
nhau tuyên xưng Người là Đức Chúa, mong được ân sủng của Người để hình thành
nên đời sống của mình, và giúp nhau đáp lại ý Ngài.
165. Phải hiểu giáo huấn
Công giáo về đồng tính luyến ái dưới ánh sáng này. Cũng giáo huấn đó mời gọi những
người chịu thu hút bởi người đồng giới (same-sex-attracted persons) sống khiết tịnh bằng hình thức tiết
dục, lại kêu gọi tất cả mọi người Công giáo hãy bỏ đi những nỗi sợ hãi, tránh sự
kỳ thị bất công, và đón nhận các anh chị em đồng tính đến hiệp thông trong tình
yêu thương và chân lý trong Hội Thánh[20]. Tất
cả các Kitô hữu được mời gọi đối diện với các khuynh hướng tính dục rối loạn của
mình và lớn lên trong đức khiết tịnh (lời kêu gọi này nhắm đến hết mọi người và
từng người) và trong trao ban và lãnh nhận tình yêu theo cách thức phù hợp với
bậc sống của mình[21].
Tuy nhiên, việc đáp ứng lại lời kêu gọi sám hối này chắc hẳn là cả một tiến
trình phục hồi của các tội nhân như chúng ta, vốn là những thành viên làm nên Hội
thánh. Điểm mấu chốt là phải tạo nên trong gia đình, giáo xứ và cộng đoàn Kitô
rộng lớn hơn, một môi trường nâng đỡ lẫn nhau, trong đó con người mỗi ngày trưởng
thành và biến đổi về mặt luân lý.
166. Ngày nay người ta có
thể hiểu được một số người muốn yêu cầu khẩn thiết đòi được chấp thuận hay xác
lập tình trạng pháp lý cho việc sống chung giữa những cặp đồng tính cũng như dị
tính, điều đó xuất phát từ nỗi sợ hãi sự cô đơn. Càng ngày trong nền văn hóa chủ
yếu thế tục hóa, người ta cho rằng có bạn tình là một điều tất yếu, và người ta
nghĩ rằng giáo huấn của Hội Thánh thật là nghiệt ngã, đày đọa người ta sống
trong cô đơn.
167. Nhưng nếu các giáo
dân bình thường hiểu được lý do căn bản đằng sau đời sống độc thân, vốn là một
thực hành mang tính cộng đoàn, và nếu nhiều hội thánh tại gia thực hiện sứ vụ
tông đồ bác ái cách nghiêm túc hơn, thì giáo huấn lâu đời của Công giáo về đức
khiết tịnh sống tiết dục ngoài hôn nhân, xem ra sẽ được nhìn nhận là hợp lý hơn
trong con mắt của người thời nay. Nói cách khác, nếu các giáo xứ chúng ta thực
sự là những nơi mà tại đó “độc thân” không có nghĩa là “cô đơn”, tại đó mạng lưới
rộng lớn bạn bè và gia đình thực sự chia sẻ niềm vui và nỗi buồn cho nhau, thì
có lẽ ít nhất một số những chống đối của người đời đối với giáo huấn Công giáo
sẽ được hóa giải. Người Công giáo có thể đảm lấy hoạt động tông đồ bác ái, cho
dẫu nền văn hóa bao quanh có lãnh đạm và thù địch đến đâu đi nữa. Không ai lại
giới hạn người giáo dân hay các linh mục sống tình thân thiện mà chúng ta vốn
có thể trao ban cho những ai đang phải chiến đấu trong cuộc sống.
168. Trong mục vụ chăm
sóc những người ly dị và tái hôn, Hội Thánh tìm cách kết hợp sự trung thành với
lời dạy của Chúa Giêsu về sự bất khả phân ly của hôn nhân (vốn đã từng làm nản
lòng các môn đệ của Người) với lòng thương xót tại tâm điểm của sứ vụ của Người.
Hãy xem, ví dụ như giáo huấn của Đức Bênêđictô XVI về hoàn cảnh mục vụ của những
người đã ly dị:
Tôi thấy ở đây một trách vụ lớn cho một giáo xứ, một cộng đoàn
Công giáo, là phải làm bất kỳ điều gì có thể để giúp họ cảm thấy được yêu
thương và đón nhận, để họ không thấy mình “bị loại trừ”... Điều này hết sức
quan trọng, vì nhờ đó, họ thấy mình được đồng hành và hướng dẫn.... Họ cần nhận
ra được rằng đau khổ này không chỉ là một đau đớn thể chất hay tâm lý, nhưng là
một điều gì họ cảm nghiệm được trong cộng đoàn Hội Thánh vì giá trị cao cả của
đức tin chúng ta. Tôi xác tín rằng đau khổ của họ, nếu thực sự được đón nhận từ
nội tâm, sẽ là một ân huệ cho Hội Thánh. Họ cần được biết điều này, để nhận thức
được rằng đây là cách họ phục vụ Hội Thánh, rằng họ vẫn đang ở trong lòng Hội Thánh[22].
169. Nói cách khác, Đức
Bênêđictô XVI đã dựa vào chân lý Chúa Kitô dạy, nhưng ngài không đơn giản xua
trừ những người ly dị tái hôn, không bảo họ cứ cắn răng chịu đựng trong cô đơn.
Đó không phải là đường lối của Hội Thánh, và bất kỳ người Công giáo nào làm như
thế xin hãy nhớ lại một trong các tội của người Pharisiêu xưa là cứ chất hàng đống
luật lên vai lên cổ người khác, mà lại không “động đậy một ngón tay” để giúp họ
(Mt 23,4). Đúng hơn, Đức Bênêđictô
XVI làm vang vọng Giáo lý của Hội thánh
Công giáo, vốn dạy “các linh mục và toàn thể cộng đoàn phải biểu lộ sự quan
tâm ân cần” đối với những người Công giáo đã ly dị, để họ không thấy mình bị loại
trừ[23].
170. Những mối dây thân
ái làm cho các đòi hỏi của luật buộc trở nên nhẹ gánh hơn. Trong cộng đoàn Kitô
hữu, các thành viên “mang lấy gánh nặng của
nhau”[24]. sẽ
giúp cho mọi người tiến bước trên con đường chữa lành và hoán cải. Tình bác ái
huynh đệ sẽ giúp cho mọi người có thể sống trung tín được. Đó cũng là lời chứng
và là lời động viên cho Hội Thánh ở quy mô rộng lớn hơn. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo cũng có nghĩ
một cái gì tương tự như điều này khi nói rằng các người phối ngẫu kiên vững
trong các cuộc hôn nhân khó khăn thì “xứng đáng được cộng đoàn Hội thánh biết
ơn và nâng đỡ”[25].
Cũng muốn nói như thế với tất cả những ai đang lâm vào hoàn cảnh gia đình
gặp thử thách.
171. Trong một nền văn hóa tròng trành giữa một đàng là tính vô
danh và đàng khác là thói tò mò tọc mạch muốn xen “vào cuộc sống của người
khác”, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta hãy đồng hành với nhau trong việc
thăng tiến con đường thiêng liêng[26].
Ngài nói: “Có người tốt đồng hành sẽ không bị thất vọng hay sợ hãi. Người đó sẽ
mời gọi những người khác hãy để cho mình được chữa lành, hãy vác lấy chõng,
mang lấy thập giá của mình, để lại sau lưng mọi sự, và lại tiếp tục bước tới để
loan báo Tin mừng”[27].
Những người được chữa lành này lại
làm lan truyền lời mời gọi đến những người khác nữa để họ cũng được chữa lành.
172. Đức tin Kitô giáo,
và ơn cứu độ mà đức tin ấy đem đến, không chỉ là sự kiện riêng tư, cho cá nhân,
nhưng có tính hiệp thông cộng đoàn sâu sắc: “Đức tin nhất thiết mang tính Hội
thánh, được tuyên xưng từ bên trong nhiệm thể Chúa Kitô như sự hiệp thông cụ thể
các tín hữu. Chính trên nền tảng Hội Thánh đó mà đức tin khai mở cho từng Kitô
hữu hướng đến mọi người. Lời của Đức Kitô, một khi được lắng nghe và nhờ tác động
của quyền năng nội tại của Lời trong tâm hồn Kitô hữu, trở thành một lời đáp trả,
một lời được nói ra, một lời tuyên xưng đức tin[28].
173. Đức Giêsu dạy nhiều điều về tính dục và hôn
nhân, vốn thật khó để sống theo, cả thời xưa lẫn thời nay. Nhưng chúng ta không
đơn độc khi đối diện với những khó khăn này. Sống trong Nhiệm thể Chúa Kitô
nghĩa là sống như những phần tử phụ thuộc lẫn nhau, người này xây dựng cho người
kia trong tình yêu thương.[29] Giáo huấn của Hội Thánh, các Bí tích,
và cộng đoàn, tất cả hiện hữu để giúp chúng ta trên cuộc lữ hành này. Với lòng
kiên nhẫn, khoan dung tha thứ, và tin tưởng, trong Nhiệm thể Chúa Kitô, cùng
nhau, chúng ta có thể chữa lành và sống theo những cung cách có vẻ bất khả trước
mặt gười khác.
Câu Hỏi Thảo Luận
a) Hội thánh là một bệnh viện dã chiến. Hội thánh giúp đỡ những
người bị thương như thế nào? Chúng ta có thể làm được gì tốt hơn nữa?
b) Tại sao người Công giáo không sống theo một thứ luân lý cá
nhân chủ nghĩa? Tại sao chúng ta nhấn mạnh sự nâng đỡ từ cộng đoàn? Bạn đã thấy
ơn Chúa hoạt động trong cộng đoàn như thế nào?
c) Đâu là những chướng ngại ngăn trở việc tạo lập tình thân ái
thiêng liêng trong nền văn hóa của bạn? Giáo xứ hay giáo phận của bạn có thể
làm được gì để cổ võ tình thân ái Công giáo?
d) Giáo xứ hay giáo phận của bạn đã làm gì để hỗ trợ việc phát
triển sống đức khiết tịnh? Có các nhóm hỗ trợ hay có các cơ hội để giáo dục về
tính dục và đức khiết tịnh hay không? Các linh mục có thường ngồi tòa giải tội
không? và có nhiều cơ hội cho việc linh hướng không không?
[2]
Cf. Mc 3,13-35; Lc 8,19-21.
[3]
Cf. GLHTCH, 77, 85. Cf. DeiVerbum (DV), 7.
[4]
ĐGH Phanxicô, Bản tin Phỏng vấn “Một trái tim lớn cởi mở với Thiên Chúa”, America, 30.09.2013.
[5]
Cf. GLHTCG, 2351-2356, và FC, 24.
[6]
Cf. ĐGH Gioan Phaolô II, Thư gửi các Gia đình Gratissimam Sane (GrS) (1994), 9.
[7]
Th. Augustinô, Sermons, 2290, The Works of St. Augustine: A Translation for the 21st
Century. Sermons III/6 (184-229Z), trans. Edmund Hill, O.P., ed. John
Rotelle, O.S.A. (New York, 1993), 323. Những ví dụ khác mà th. Augustinô dùng
mô tả ôn cứu độ bằng ngôn ngữ y khoa, xin xem Serm. 229E (ibid.,
p.283); Confessions VII, xx, 26; X, xxx, 42; De doctrina christiana 1, 27; 4, 95; Enchiridion 3.11; 22.81; 23. 92; 32.121; De nuptiis, Bk. 2, 9. III; 38. XXIII.
[8]
Th. Augustinô, Tractates on the Gospel of
John, 41.13.2. Saint Augustine
Tractates on the Gospel of John 28-54, trans. John W. Rettig, CUA Press,
Washington, 1993, 148-149.
[11]
ĐGH Gioan Phaolô II, Tđ. Veritatis
Splendor (VS) (1993), 7.
[15]
GLHTCG, 1428. Cf. LG, 8.
[18]
Francis X. Rocca, “Pope, in interview, suggests...” Catholic News Service,
05.03.2014.
[20]
Cf. GLHTCG, 2358-2359.
[21]
Cf. GLHTCG, 2337, 2348.
[22]
ĐGH Bênêđictô XVI, Diễn từ “Evening of Witness”, Milan, 02.06.2012.
[24]
Gl 6,2. X. trên đây, số 88.
__._,_.___
|